Cuối năm 1980, tôi thiên cư từ một tiểu bang lạnh giá ở miền trung nước Mỹ sang California. Ngay khi vừa ổn định cuộc sống, tôi lập tức bắt tay vào những mơ ước mà khi còn ở Việt Nam không có điều kiện thực hiện. Trong những ước vọng nhỏ nhoi đó có hai món đồ kỷ niệm tôi còn giữ đến ngày nay. Đó là một cái nghiên mực và một cái ống bút bằng tre mua trên phố Tàu ở Los Angeles, cách nơi tôi ở chừng 40 dặm.
Cái nghiên bằng đá đen có tạc
hình một con trâu nằm, để trong một cái hộp gỗ đánh xi nâu với giá thuở đó là
36 USD, còn cái ống bút chỉ có 1 USD. Nhẩm tính hai món đồ này đến nay cũng đã
tròm trèm 40 năm.
Cái nghiên đó tôi dùng thường
xuyên trong khoảng 5 năm nhưng lâu nay họa hoằn lắm mới có dịp đem ra ngắm, tuy
số lượng nghiên mực sưu tầm trong nhà đã lên số hàng chục trong đó có cả nghiên
Tàu, nghiên Nhật, nghiên Triều Tiên… nói chung là từ những quốc gia đồng văn với
Trung Hoa hay những nơi có một cộng đồng Hoa kiều lớn.
Thực ra, cái nghiên này là cái thứ
hai tôi có. Trước đây, khi làm ở một tỉnh miền Trung, tôi có mua một cái nghiên,
loại nghiên thông dụng cho học sinh người Hoa, tuy cũng bằng đá nhưng không phải
là đồ hiếm quí. Sau năm 1975, cái nghiên đó thất lạc phần vì tôi không còn viết
chữ, phần vì để chỗ nào đó quên phứt đi nên cũng không để ý tới nữa.
Tuy không mấy khi cầm đến cây bút
lông, nghiên mực vẫn là một món đồ ưa thích. Mỗi lần ngắm nghía một chiếc
nghiên trong bộ sưu tập, cục đá vô tri kia tưởng như đang nói chuyện với mình về
những gì đã trải qua, kể lể cho chúng ta về những dòng chữ, những nét vẽ mà nó
đã dự phần.
Ngoài số nghiên mà tôi biết chắc
là có nguồn gốc từ Trung Hoa, tôi cũng hay mua những chiếc nghiên từ Nhật Bản.
Nghiên Nhật Bản giản dị, lắm khi để nguyên tảng đá không đẽo gọt (ngoài phần
làm nghiễn đường), chỉ có một cái nắp đậy bằng gỗ quí nên gần gũi, giản phác mà
tinh tế, thanh nhã mà thầm kín, không phô trương. Nghệ thuật của người Nhật gần
với mình hơn nghệ thuật của người Tàu.
Ngày hôm nay, phần lớn ít ai dùng
nghiên, đa số những “cụ đồ tân thời”
trình diễn thư pháp mỗi dịp Tết ở Việt Nam thường dùng bát để đựng mực rót từ
những chai công nghiệp. Hầu như ít ai mua mực thỏi, cũng không còn cái thú mài
mực để dùng nên có lẽ đặt nặng phần luyện tập nét chữ mà ít chú trọng đến nghi
thức và dụng công của người đọc sách đã đưa việc viết chữ lên thành một thứ “tôn giáo” để di dưỡng tâm hồn. Trong cái
tài hoa dường như đã nhuốm mùi tục lụy.
2.
Văn nhân và
nghiên mực
Danh sĩ luôn luôn chú trọng đến
những dụng cụ cần thiết cho việc làm văn,
nên không chỉ nghiên mà bút, giấy, mực cũng luôn luôn được coi trọng. Tuy không
mấy khi chế tạo được những vật dụng nhưng riêng về nghiên mực, nhiều thư pháp
gia, họa sĩ tự mình đi tìm kiếm đá tốt và trao đổi kinh nghiệm với người thợ làm
nghiên nên sản phẩm cũng phản ảnh phần nào ý kiến của người dùng. Tây Thanh
Nghiễn phổ, một loại danh mục các nghiên mực sưu tập trong cung nhà Thanh được
thực hiện đời Càn Long, cho biết đến lúc đó còn lưu lại nhiều nghiên đá của Mễ Phất
(米芾)[1],
Triệu Mạnh Phủ rất tinh vi. Chính vì liên quan trực tiếp đến văn chương, nên những
nghiên cứu về nghiên đã xuất hiện rất sớm, ghi chép nhiều chi tiết cả về loại
đá lẫn hình dáng và cách chế tạo.
Ngay từ thời Tống, sách viết về
nghiên đã khá nhiều, chẳng hạn như Nghiễn
phổ (硯譜) của Âu Dương Tu (歐陽修), Nghiễn lục (硯錄) của Đường Tuân (唐詢), Nghiễn sử (硯史) của Mễ Phất (米芾), Nghiễn phổ (硯譜) của Lý Chi Ngạn (李之彥), Nghiễn tiên (硯箋) của Cao Tự Tôn (高似孫). Riêng Nghiễn tiên
có thể coi là một bộ toàn thư vì chia thành nhiều quyển, mỗi quyển luận về một
loại, Đoan thạch, Thiệp[2]
thạch, các loại đá và minh văn khắc trên nghiên.
Sang thời Minh, dưới triều Hồng
Võ có Tào Chiêu (曹昭) soạn Cách cổ yếu luận
(格古要論), có một chương “Luận cổ nghiễn”
(論古硯), triều Vạn Lịch có Cao Liêm (高濂) soạn Tuân sinh bát tiên (遵生八牋) cũng có một mục luận về nghiên, miêu họa một số nghiên mực
mà ông thấy nên giúp cho người sau biết được hình dạng những nghiên đó, coi như
bước khởi đầu đưa hình vẽ vào trong sách. Trước thời Minh, khi luận về các loại
đá làm nghiên như Đoan thạch, Thiệp thạch thì phần lớn đều giống nhau, đại đồng
tiểu dị, nên người sau cũng khó mường tượng ra được sự khác biệt như thế nào.
Sang thời Minh mạt - Thanh sơ và
nhất là qua ba đời vua Khang Hi, Ung Chính, Càn Long đều là những người chuộng
văn học, thời gian trị vì lại lâu dài nên thư pháp, nghệ thuật được đề cao, việc
chọn đá, tạc nghiên cũng nhờ đó mà phát triển. Đầu thời Thanh, Cao Phượng Hàn (高鳳翰) soạn Nghiễn sử (硯史), Kỷ Quân (紀昀) soạn Duyệt Vi thảo
đường nghiễn phổ (閱微草堂硯譜), Đường Bỉnh Quân (唐秉鈞) soạn Văn phòng tứ khảo
đồ thuyết (文房肆考圖說) là những bộ sách vừa cả văn, vừa có hình vẽ rất rõ ràng và
đặc sắc.
Về sách vở do triều đình thực hiện,
bộ Tây Thanh nghiễn phổ (西清硯譜) được coi như hàng đầu trên cả
hai phương diện miêu tả lẫn hình vẽ. Theo lời đề tựa của vua Càn Long trong Tây Thanh nghiễn phổ thì:
Trong nội phủ có nhiều nghiên, hoặc từ triều trước để lại,
hoặc do các đời cũ như Ngọc Lan đường nghiễn, Bích Thủy nghiễn thời Tấn, vẫn trưng
bày ở Noãn Các nơi phía đông và phía tây của Càn Thanh cung, nay nghĩ rằng vật
thì nhiều, đất thì rộng để các nơi nhiều năm qua, không khỏi lung tung khó nhớ,
có khi mất mát thất truyền, thật là đáng tiếc[3].
Năm Mậu Tuất, Càn Long thứ 43
(1778), vua Cao Tông sai các học sĩ đương thời bao gồm Vu Mẫn Trung (于敏中), Lương Quốc Trị (梁國治), Vương Kiệt (王杰), Đổng Cáo (董誥), Tiền Nhữ Thành (錢汝誠), Tào Văn Thực (曹文埴), Kim Sĩ Tùng (金士松), Trần Hiếu Vịnh (陳孝泳) tất cả 8 người lo việc soạn thảo,
còn vẽ hình thì do bọn Môn Ứng Triệu (門應兆) phụ trách lấy tên là Tây
Thanh nghiễn phổ.
Tây Thanh là nơi nghỉ ngơi nhàn
nhã trong cung. Dưới thời Càn Long, Nam thư phòng cũng có tên gọi là Tây Thanh
vốn là nơi các học sĩ trong triều đến làm việc, biên soạn sách vở.
Bộ Nghiễn phổ này bao gồm 24 quyển, chia theo chất loại và thời đại, từ
quyển 1 đến 6 là nghiên bằng gốm sứ, quyển 7 đến 21 là nghiên đá, quyển 22 đến
24 là các phụ lục. Trong các loại đồ gốm cũng chia ra bằng sành, bằng ngói và
bùn nung. Còn về bằng đá, sách chia ra: Đoan
nghiễn, Thiệp nghiễn, Thao Hà nghiễn, Hoắc Thôn thạch. Trong phần phụ lục,
sách liệt kê các loại khác như ngọc, sứ, tuy cũng có danh gia dùng đến nhưng
không nhiều, cũng không thích hợp với việc bút mực nên không được liệt vào hàng
chính lục.
Tây Thanh nghiễn phổ bản gốc bao gồm 200 chiếc nghiên, phụ lục thêm 40 chiếc nữa,
tổng cộng 240 chiếc, ghi chép và miêu tả những chiếc nghiên cất giữ trong cung,
thêm phần giải thích và hình vẽ. Nói tóm lại bộ Nghiễn phổ này là một dạng mục lục (catalogue) liệt kê các nghiên
quí đang cất giữ trong triều đình.
Hình vẽ do họa sĩ trong nội các ảnh
hưởng cách vẽ có bóng đen của Tây phương[4] nên có ba chiều, nhìn vào dễ hình dung ra món đồ hơn lối vẽ
đường nét của Trung Hoa. Khi so sánh với những chiếc nghiên còn tồn tại, những
hình vẽ trong Tây Thanh nghiễn phổ giống hệt từng chi tiết.
“Tây Thanh nghiễn
phổ cổ nghiễn” tr. 28-9
3.
Tên gọi của nghiên
Ngày xưa lấy ngói làm nghiên nên
gọi là nghiễn ngõa 硯瓦hay ngõa nghiễn瓦硯; về sau lấy đá làm nghiên nên gọi là thạch nghiễn 石硯. Thời Tấn, Phó Huyền 傅玄có viết Nghiễn Phú 硯賦; thời Đường, Dương Sư Đạo 楊師道 có làm thơ Vịnh nghiễn
咏硯 và về sau Lý Kiều 李嶠 cũng có Vịnh nghiễn. Người Trung Hoa đưa ra nhiều tên gọi khác nhau, ít nhiều
đều có tính “nâng cấp” và “thi vị hóa” cục đá dùng để mài mực. Họ
dùng những tên sau đây để gọi chiếc nghiên:
3.1.
Tức Mặc hầu (即墨侯)
Tên này có từ thời Đường. Trong Tức Mặc hầu Thạch Hư trung truyện (即墨侯石虛中傳) có chép
: Nhà vua thấy đây là một món đồ ích lợi, khen là kính cẩn lặng lẽ, luôn
luôn ở bên cạnh mình hầu hạ, ngày ngày quen thuộc với văn chương nên phong cho
Tức Mặc hầu. Thời Tống, Vương Mại 王邁 trong bài thơ Trừ dạ
tẩy nghiễn (除夜洗硯) có thơ
rằng: 多謝吾家即墨侯,朝濡暮染富春秋 Đa tạ ngô gia Tức Mặc hầu; Triêu nhu mộ nhiễm phú Xuân Thu (Đa tạ anh Tức Mặc
hầu nhà ta, Sáng ướt chiều thấm kinh Xuân Thu)[5].
Trong Ấu học quỳnh lâm (幼學瓊林), Cung thất loại, quyển 3 chép: 石虛中,即墨侯,皆為硯稱 (Thạch Hư trung, hay Tức Mặc hầu đều là cách người ta gọi
chiếc nghiên).
3.2.
Vạn Thạch
quân (萬石君)
Tô Thức (tức Đông Pha) thời Tống
viết trong Vạn Thạch quân La Văn truyện
ca tụng loại La Văn nghiễn (một loại Thiệp nghiễn) nói là có danh sĩ tên La Văn,
người đất Thiệp 歙,
khi còn sống thường ở ẩn trên núi Long Vĩ 龍尾. La Văn giúp vua Thành Văn trị nước, công lao rất lớn nên
được phong là Vạn Thạch quân, La Văn gọi
cái nghiên của mình là Vạn Thạch quân,
về sau nhiều người cũng dùng theo.
3.3.
Ngõa nghiễn (瓦硯)
Cũng gọi là Nghiễn ngõa hay Ngõa đầu nghiễn.
Trước thời Đường ngoài nghiên làm bằng đá hay nghiên làm bằng ngói, người ta
còn làm nghiên bằng đồ gốm. Trừng nê nghiễn
là một loại nghiên làm theo kiểu làm đồ gốm nhiều công phu. Hàn Dũ trong Ế nghiễn văn (瘞硯文) có nói Trừng nê nghiễn “đất làm thành chất, đồ sứ làm thành khí”. Thời Tần - Hán làm ngói
các cung điện thường lấy bùn từ sông Phần nên người đời sau lấy ngói đó làm
nghiên.
Ngoài ra, ở Nghi Hưng nơi chuyên
làm các loại ấm đất nhỏ [thường gọi ấm tử sa] là đồ gốm không tráng men rất nổi
tiếng cũng có nặn nghiên được nhiều người sưu tầm.
(sưu tầm của tác giả)[6]
3.4.
Đào hoằng (陶泓)
Hàn Dũ thời Đường trong Mao Dĩnh truyện gọi nghiên là Đào hoằng nên Đào hoằng cũng để chỉ nghiên làm bằng đồ gốm. Thời Đường Tống các
loại nghiên đá tuy phong phú nhưng vẫn không thông dụng và dễ làm như các loại
nghiên làm bằng gốm sứ. Ở nước ta, dường như nghiên phần nhiều làm bằng đồ sứ
nên cũng không mấy người dùng nghiên đá.
3.5.
Nghiễn đài (硯臺)
Nghiễn đài là tiếng
gọi thông dụng nhất của chiếc nghiên. Thời Đường, Tư Không Đồ có thơ rằng: “Tịch dương chiếu cá tân hồng diệp, Tự yếu đề
thi lạc nghiễn đài” (Nắng buổi chiều chiếu vào chiếc lá mới đỏ, Muốn đề thơ
nhưng chiếc nghiên lại để đâu không biết).
3.6.
Thạch hữu (石友)
Người xưa xem những món trong thư
trai của mình đều là bạn bè, vì thế chiếc nghiên được gọi tên Thạch hữu (người bạn đá). Vương Viêm 王炎 thời Tống trong bài thơ Đề
Đồng Thọ khanh Bác Nhã đường 題童壽卿博雅堂có viết: 剡溪來楮生,歙穴會石友: Thiểm Khê lai chử sinh, Thiệp Huyệt hội thạch
hữu” (Giấy từ Thiểm Khê đến, Gặp nghiên ở Thiệp huyệt). Chử sinh [hay chử
tiên sinh] là giấy, thạch hữu là nghiên.
3.7.
Nghiễn điền (硯田)
Người đọc sách đời xưa coi văn
chương là nghề nghiệp, nghiên là ruộng cày ám chỉ văn chương là sinh kế của nhà
nho. Tô Thức thời
Tống viết: “我生無田食破硯,爾來硯枯磨不出: Ngã sinh vô điền thực phá nghiễn, Nhĩ lai nghiễn
khô ma bất xuất” (Tôi
vốn không có ruộng chỉ sống bằng chiếc nghiên sứt mẻ, Vậy mà dạo này đến chiếc
nghiên cũng đã khô, mài không ra mực).
3.8.
Nghiễn trì (硯池)
Vì có chỗ lõm nên người ta gọi là
ao mực. Trong Nghiễn phú của Phó Huyền
thời Tấn viết: “蘆方圓以定形,鍛金鐵而為池: Lô phương viên dĩ định
hình, Đoạn kim thiết nhi vi trì” (Vuông hay tròn đã định hình rồi, Rèn vàng
sắt để làm ao).
3.9.
Nghiễn sơn (硯山)
Dùng đá thiên nhiên làm nghiên, tạc
hình như ngọn núi nên gọi là nghiễn sơn.
3.10.
Mặc hải (墨海)
Mặc hải nghĩa là
biển mực, chỉ cái nghiên lớn, chứa được nhiều mực (khác với nghiễn trì là nghiên nhỏ).
3.11.
Thư nghiễn (書硯)
Sách Thuyết phu 說郛 tập hợp Hán nam ký 漢南記 của Trương Oánh 張瑩có viết: “Ở phía nam ao Sái Tử 蔡子池 của Giang Châu江州 có một giếng đá, sâu khoảng hai trăm trượng, đá màu xanh,
dùng làm nghiên rất tốt”. Chu Hi 朱熹 thời Tống trong Huấn học trai qui 訓學齋規 viết: Các bậc tiền bối nói rằng:
壞筆污墨,瘝子弟職。書几書硯,自黥其面 (bút cùn, để mực bẩn, sẽ làm hỏng chức phận của con cháu; viết
lên án, vẽ lên nghiên, thì như tự bôi mực lên mặt mình).
3.12.
Thạch trượng nhân (石丈人)
Viên Mai 袁枚trong Tùy viên thi thoại
隨園詩話quyển 14
có viết: Suốt tháng đó đi chơi ở am Hải Triều phía đông, được Văn Tiết Công 文節公cho một chiếc nghiên vuông nhỏ …
lúc sắp chết tặng lại cho Tra Tuân Thúc查恂叔. Khi đó người đề thơ rất nhiều, Tiền Tân Mi 錢辛楣 nói rằng “trước mắt chỉ thấy thạch
trượng nhân, Giang Nam không còn được ai nữa”.
3.13.
Thạch hương hầu (石鄕侯)
Tôn Dịch 孫奕 thời Tống viết trong mục Nhân vật dị danh, phần Tạp ký,
sách Lý Trai thị nhi biên《履齋示兒編·雜記·人物異名》: “Nghiên
gọi là Thạch hương hầu”. Trong Thư ngôn cố
sự, Văn vật loại, Nghiễn 《書言故事·文物類·硯》 viết là “Tiết Tắc (薛稷) làm nghiên, phong cho nó là thạch
hương hầu”[7].
4.
Các bộ phận của nghiên
Từ thời Hán về sau, cái nghiên đã
trở nên có qui thức và từng bộ phận trên chiếc nghiên được đặt tên và được số
đông công nhận, chủ yếu có nghiễn đường, nghiễn trì, nghiễn ngạch, nghiễn cương,
nghiễn biên …[8]
4.1.
Nghiễn đường (硯堂)
Tức là lòng nghiên, còn gọi là mặc đường, mặc đạo hay nghiễn tâm.
Nghiễn đường là nơi mài mực, là chỗ mà người ta thử để biết nghiên có tốt hay
không? Một chiếc nghiên được đánh giá chủ yếu là ở mặc đường nên khi làm nghiên,
người ta luôn luôn chọn chỗ đá tốt nhất để làm nơi mài mực.
4.2.
Nghiễn
trì (硯池)
Còn gọi là mặc trì, nghiễn hải, nghiễn hồ, để chỉ nơi lõm xuống trên chiếc
nghiên, là chỗ chứa nước hoặc mực. Người ta thiết kế nghiên trì theo cục đá mà
họ có, khi to khi nhỏ, khi vuông khi tròn, vị trí cũng tùy theo đề tài mà sắp đặt.
Nếu như đá có hoa văn thì người ta không để nghiễn trì nơi đó mặc dù nghiên nào
cũng phải có nơi chứa mực, không có không gọi là nghiên.
4.3.
Nghiễn ngạch (硯額)
Còn gọi là nghiễn đầu chỉ phần trên của chiếc nghiên là nơi có thể khắc thêm
hoa văn, họa tiết cho thêm phần mỹ thuật và giá trị.
4.4.
Nghiễn
cương (硯崗)
Nghiễn cương là cái gờ nổi lên
trong nghiễn trì, còn có tên là “bụng La
Hán” cốt để khi mài mực mực sẽ chảy theo hai bên xuống nghiễn trì, cũng là
chỗ để người ta vuốt bút. Nhiều chiếc nghiên không tạo nghiễn cương nhưng tạc một
cành hoa, một con trâu, hay một hoa văn thay vào cho thêm vẻ mỹ thuật.
4.5.
Nghiễn
biên (硯邊)
Nghiễn biên là cạnh nghiên, giữ
cho mực khỏi tràn ra ngoài khi mài. Tùy theo hình thể và chất liệu đá, người ta
có thể điêu khắc nhiều loại hoa điểu nhưng phần lớn chỉ dùng dao vạch sâu thành
hoa văn.
4.6.
Nghiễn trắc (硯側)
Nghiễn trắc là bên hông chiếc
nghiên cũng được dùng làm nơi trang sức, nhất là các loại nghiên vuông, nghiên chữ
nhật.
4.7.
Nghiễn diện (硯面)
Ngoài phần nghiễn đường là nơi
mài mực, công dụng chính của chiếc nghiên nhiều người còn tạc những hình thể rất
mỹ lệ khiến cho chiếc nghiên biến thành một tác phẩm điêu khắc mà quên đi dụng
ý chính của nghiên là mài mực. Phần hoa lá cành đó gọi là nghiễn diện nay cũng được
nhiều người quan tâm.
4.8.
Nghiễn bối (硯背)
Còn gọi là đáy nghiên tức mặt dưới của chiếc nghiên, thường được dùng để khắc
chữ, đề khoản để biết được ai là tác giả hay chủ nhân gửi gắm
điều gì. Cũng có khi khắc thơ văn, ấn triện, đề bạt nên nhiều khi chỉ là khắc
nông (thiển điêu) và là phần phụ cho chiếc nghiên.
4.9.
Nghiễn
cái (硯蓋)
Tức là cái nắp bên trên, có khi
là một phần của chiếc hộp đựng nhưng có khi chỉ là một mảnh gỗ để đậy cho mực
không bị khô. Tuy vậy nhiều chiếc nghiên có những nắp đậy rất vừa vặn và mỹ thuật.
5.
Làm nghiên
Tùng Hoa nghiễn
(trong bộ sưu tập của gia đình Khổng
Tường Hi)[9]
Từ khi còn
là một cục đá trong mỏ, đến khi hoàn thành một chiếc nghiên phải qua nhiều công
đoạn, nhiều công phu. Tựu trung phải qua những tiến trình sau đây: kiếm và lấy
đá, chọn vật liệu, thiết kế, điêu khắc, làm hộp đựng, mài cho nhẵn và sau cùng
là vuốt sáp.
5.1.
Kiếm đá (採石)
Việc đầu
tiên để làm nghiên đương nhiên là phải tìm cho được một khối đá thích hợp. Người
thợ chui vào hang dùng xà beng nạy những miếng đá rồi đem đến những xưởng công
nghệ, ở đó sẽ phân loại để tìm xem những phần nào có thể làm nghiên. Việc tìm
được một khối đá thích hợp cho việc đục nghiên khó như thế nên người ta đã có
câu: “Một cân đá tốt đáng giá nghìn vàng”
(Giai thạch nhất cân, giá trị thiên kim).
5.2.
Chọn đá (選料)
Chọn đá
người ta xem đá nào tốt để phân loại gọi là “duy liệu” (維料). Người thợ lấy
đá đem ngâm nước để xem có hoa văn thiên nhiên hay không, chẳng hạn đá Đoan Khê thì có
những mắt trong gọi là ngư não, có
vân đá hay những văn sọc gọi là vân lá
chuối (蕉葉白); Thiệp thạch thì có kim vựng, la văn, kim tinh điểm, loát ti la
văn; Thao Hà thạch thì có áp đầu lục,
hoàng tiêu, lục thạch …
Sau đó
người thợ chia ra thành đá loại nhất, loại nhì, loại ba. Hạng nhất là đá mịn mặt,
có nhiều hoa văn được dùng để làm các loại nghiên cao cấp, loại nhì là loại đá
mịn, thuần chất, ít văn lý thường dùng để làm nghiên có khắc hoa văn, loại ba
là đá thô và nhiều ngấn không khác gì một cục đá thường, dùng đục những loại
nghiên thực dụng, rẻ tiền.
5.3.
Thiết kế (設計)
Thiết kế
còn gọi là cấu tứ (構思) tức là quan sát, nghiên cứu xem chất đá, màu sắc,
các loại hoa văn và các vết lỗi để
xem phải làm thế nào có được một chiếc nghiên vừa mỹ thuật, vừa tiện dụng.
Việc thiết
kế một chiếc nghiên sẽ quyết định phần lớn giá trị sau này vì việc tạo hình,
điêu khắc, kỹ pháp đều tùy thuộc vào việc nhìn ra những yếu tính của cục đá và
phối trí thế nào cho những đặc tính đó nổi bật, chẳng hạn gò cho mắt đá thành vầng
trăng, vân đá thành sóng nước …
5.4.
Điêu khắc (雕刻)
Sau khi
đã có một phác đồ, trước khi bắt đầu người thợ dùng dao khắc vẽ đơn giản những
đồ hình mà người ta dự định sẽ tạc lên khối đá, nhất là sắp xếp để chủ đề phù hợp
với những gì đã phác họa. Người thợ cũng phải tính toán chỗ nào sẽ phải đục sâu,
chỗ nào đục nông hay chỉ khắc đường vẽ và tùy từng chỗ mà dùng dao, đục để sao
cho lên xuống đúng như dự định.
Vì có nhiều
vùng, nhiều loại đá và phong khí mỗi thời một khác, việc điêu khắc trên nghiên
cũng thay đổi. Những nhà nghiên cứu còn chia ra thành nhiều phái khác nhau như:
Việt phái (đá Quảng Đông, tức Đoan Khê), Huy phái (đá Thiệp Châu), Tô phái (Tô Châu), Cung đình (kiểu nghiên trong cung vua) … mỗi phái có một khuynh hướng
và mục tiêu.
5.5.
Làm hộp (配盒)
Một chiếc nghiên đẹp thường phải
đi kèm một chiếc hộp đựng vừa vặn, khéo léo để vừa trưng bày vừa bảo vệ cho món
đồ quí. Hộp thường được làm sao cho vừa khít với chiếc nghiên, nếu như nghiên
hình dáng bất thường thì hộp cũng phải đục theo hình dáng đó.
Người Việt có câu “người đẹp vì lụa”, ý nói đồ trang điểm
bên ngoài cũng là một yếu tố quan trọng để tăng thêm nhan sắc. Người Trung Hoa
cũng có câu “người mặc áo mới, ngựa có bộ
yên” (人穿新裝, 馬配鞍) nên nghiên đẹp cũng cần một cái hộp mỹ thuật để làm nổi bật
giá trị của món đồ và nhất là để giữ gìn khỏi vô tình bị đụng chạm, sứt mẻ.
Vật liệu để làm hộp đựng nghiên
cũng rất đa dạng, tùy theo sở thích và sáng kiến của từng người và cũng tùy
theo sự phong lưu của chủ nhân mà có thể làm bằng vàng, bạc, ngọc, đồng, sắt
nhưng thông thường nhất là bằng gỗ. Theo Nghiễn
thư thì:
Hộp đựng nghiên tốt nhất là bằng gỗ phủ sơn, kế đến là gỗ tử
đàn. Hộp sơn tốt hơn đàn hương vì không thấm nước …[10]
Các nghiên quí phần lớn hộp làm bằng
gỗ tử đàn, hồng mộc[11],
hoàng hoa lê … các loại gỗ hiếm, nhiều hộp còn khảm xà cừ, khảm ngọc … hoặc khắc
những bài minh để tăng phần giá trị.
Gỗ làm hộp xấu tốt tùy theo giá
trị của nghiên, nghiên tốt không làm hộp xấu mà nghiên tầm thường cũng không ai
làm hộp bằng gỗ quí. Mua nghiên trên mạng cũng có thể nhìn chiếc hộp mà lượng định
phần nào giá trị của chiếc nghiên đi kèm với nó.
Chế tạo hộp đựng nghiên nay vẫn
tuân theo qui luật của thời Minh - Thanh, nắp hộp cao hơn đáy, thường là 3/5 và
2/5 (nếu bỏ nghiên riêng ra ngoài, để hai phần nắp và đáy cùng trên một mặt phẳng).
Đáy hộp cũng thường có thêm 4 chân đều nhau hay móng cọp nghĩa là ba chân ở
trên, một chân ở dưới. Chân hộp thường mỏng gọi là bình để cước (chân đáy
ngang).
5.6.
Chà nhẵn (打磨)
Ngày nay việc mài nghiên hay đánh
bóng các điêu khắc dùng cả hai loại, máy chạy điện và thủ công, dùng đá mài hay
giấy nhám, thô hay mịn tùy công đoạn. Việc mài bóng không nên dùng sức quá nhiều
mà phải kiên nhẫn vì chà mạnh có thể làm những chỗ điêu khắc mỏng manh bị sứt mẻ.
Nghiên càng phức tạp thì công việc
mài dũa, đánh bóng và tạo hình càng nhiều công phu, trị giá sau cùng cũng vượt
ra khỏi chủ đích của việc làm một công cụ để mài mực.
5.7.
Bôi sáp (打蠟)
Sau khi tác phẩm đã qua mọi công
đoạn, người ta sẽ phủ lên trên khối đá một lớp sáp, trước là bảo vệ chiếc
nghiên khỏi bị phong hoá, sau là khiến cho mặt đá mịn màng và tươi nhuận. Những
văn lý hay vết khắc nhỏ khi đó hiện ra rõ ràng hơn, chất đá cũng trở nên sống động.
Việc bôi sáp chỉ nên phủ một lớp mỏng, bôi quá nhiều có thể phản tác dụng, tưởng
như muốn che dấu những khuyết điểm.
6.
Các loại danh nghiễn
Đá làm nghiên được tìm thấy tại
nhiều nơi trên đất Trung Hoa nhưng đặc biệt nhất thì có Đoan nghiễn (端硯), Thiệp nghiễn (歙硯) và Thao Hà nghiễn (洮河硯). Duy nhất một loại nghiên không dùng đá trực tiếp từ thiên
nhiên mà dùng bùn dưới lòng sông để tạo thành gọi là Trừng Nê nghiễn (澄泥硯). Đó là 4 loại danh nghiễn của Trung Hoa.
Ngoài ra cũng còn vô số nơi đá có
thể làm nghiên nhưng ít người biết hơn và cũng không tốt bằng. Khi chiếc nghiên
người ta sưu tầm không mấy ai còn dùng để mài mực, sự xấu tốt trong công dụng của
nó càng khó phân biệt. Chiếc nghiên nay chỉ là một tác phẩm điêu khắc mà màu sắc,
vân đá trở thành những đặc tính được quan tâm hơn cái dụng của phiến đá. Nhiều
nghiên lớn, chạm trổ và thiết kế rất cầu kỳ, tuy đẹp nhưng sử dụng sẽ rất khó
khăn, nhất là sau khi dùng xong lại phải rửa sạch thì thật nhiêu khê, có khi
mang họa cho chủ nhân nếu vô tình vấp ngã.
Theo Liễu Tân Tường trong Trung Quốc nghiễn đài thu tàng vấn đáp thì
hiện nay các loại danh nghiễn bị làm giả rất nhiều nhưng không phải vì thế mà
những nghiên đó không có giá trị. Nghiên tốt bao gồm những đặc tính mịn màng nhỏ
hạt, chắc chắn, dễ mài mực và không làm mòn bút (細膩溫潤,堅實,易發墨,不損毫). Ngoài ra nghiên tốt cũng ít hút nước nên mực không bị khô
nhanh[12]. Nghiên vừa là một dụng cụ để mài mực, vừa là một vật đựng
mực nên hai đặc tính “phát mặc” [dễ mài
mực] và “bất tổn hào” [không mòn bút]
được đề cao. Đó là chưa kể nghiên mực cũng là một vật trang trí nên vân đá, màu
sắc, hộp đựng … lại càng cầu kỳ và việc bảo trì, sử dụng càng thêm phức tạp.
6.1.
Đoan nghiễn (端硯)
Đoan nghiễn
(sưu tầm của
tác giả)
Đoan nghiễn làm bằng đá Đoan Khê ở
Triệu Khánh, Quảng Đông, vẫn được coi là loại đá tốt nhất để làm nghiên (群硯之首: quần nghiễn chi thủ). Triệu Khánh ngày xưa gọi là Đoan Châu nên
nghiên có tên là Đoan nghiễn.
Theo lịch sử thì đá ở đây được
khai thác để làm nghiên từ thời Đường. Nhiều ngôi mộ cổ khi khai quật đã tìm thấy
Đoan nghiễn. Trong Vân lâm thạch phổ
thời Tống đã cho biết văn nhân thích nghiên làm từ đá Đoan Khê, phân biệt ra bốn
loại màu lấy từ hang động hay lòng suối[13].
Tính cho tới thời Thanh người ta
đã tìm thấy khoảng 70 nơi ở Đoan Châu có đá làm nghiên nhưng chỉ có chừng 10 mỏ
là được chú trọng nhiều, chẳng hạn như Long Nham, Thủy Nham, Khanh Tử Nham,
Tuyên Đức Nham, Triều Thiên Nham, Tống Khanh, Mai Hoa Khanh, Ma Tử Khanh … Vì bị
đào bới quá đà, kể từ năm 2000 chính quyền Triệu Khánh, Cao Yếu đã ra lệnh cấm
không cho khai thác nữa.
Ngoài các đặc tính tế, nhị, ấu, nộn (mịn màng tươi nõn) mà
người ta cho rằng là đặc điểm của đá Đoan Khê, đá ở đây còn nổi tiếng về vân đẹp,
hoặc màu xanh, hoặc màu trắng, có khi màu xanh phơn phớt, hay đỏ … nhất là mắt
đá thiên nhiên như cù dục nhãn (chim sáo), anh ca nhãn (chim vẹt), kê công nhãn
(gà trống), liêu ca nhãn (chim di), tước nhãn (chim sẻ), miêu nhãn (mắt mèo), lục
đậu nhãn (hạt đậu xanh) … Đá Đoan Khê không hút nước, mặt mịn nên chấm mực bút
không mòn, mực mài ra tươi và nhuận nên văn nhân ai cũng ưa chuộng.
6.2.
Thiệp nghiễn (歙硯)
Thiệp nghiễn
(sưu tầm của tác giả)
Thiệp nghiễn làm bằng đá ở Thiệp huyện,
các vùng Kỳ Môn, Hưu Ninh, Y Huyện, Tích Khê, Vụ Nguyên … tỉnh An Huy, trong đó
Vụ Nguyên có đá tốt nhất. Nghiên sản xuất ở đây được gọi là Thiệp nghiễn hay Long Vĩ nghiễn. Theo Thiệp nghiễn
phổ của Hồng Cảnh Bá thời Tống, thì đời Khai Nguyên nhà Đường, có người thợ
săn đuổi theo dã thú thấy trong núi có đá đẹp, lấy đem về tạc thành nghiên đem
tặng cho châu lệnh. Châu lệnh rất thích nên cho người vào tìm, từ đó Thiệp nghiễn
nổi danh.
Thiệp thạch có màu đen điểm sắc
xanh, sắc vàng, nhiều khi có những vân dài gọi là la văn, mi tử văn.
La văn thường là hai màu đen và
xanh chạy xen lẫn nhau như lụa (sa), được chia ra đặt tên đến hai chục loại như
cổ tê la văn (văn đá như sừng tê), ngư tử
la văn (văn đá hình trứng cá), ám tế la văn (văn đá mịn và mờ) … Những khối
đá có la văn được coi là thượng phẩm.
Mi văn là những vạch hình như
lông mày màu đen, là một biến chủng của la văn. Mi văn cũng lại chia thành nhiều
loại như nhạn hồ văn, trường mi, đoản mi,
khoát mi, lục đậu mi …
Ngoài la văn và mi văn, người ta
còn ghi nhận những mạt vàng hay bạc lấp lánh như những vì sao đêm được gọi dưới
tên kim tinh, kim vựng, ngân vựng.
Cũng như Đoan Nghiễn, Thiệp Nghiễn
được đánh giá dưới 3 tiêu chuẩn, đó là chất đá săn chắc, văn lý tươi đẹp, sắc
trạch màu xanh tro.
6.3.
Thao Hà nghiễn (洮河硯)
Thao Hà nghiễn còn được gọi dưới
một tên khác là Thao Châu lục thạch nghiễn
hay Thao nghiễn vì dùng đá ở lòng
sông Thao mà đục thành. Đá này lấy ở tỉnh Cam Túc tại khu tự trị người Tây Tạng,
ngày xưa gọi là Thao Châu, thuộc huyện Trác Nê. Đá vùng này được dùng làm
nghiên từ thời Đường - Tống, tùy theo loại đá mà phân ra thượng, trung và hạ phẩm.
Triệu Hi Hộc (趙希鵠) thời Tống viết trong Cổ nghiễn biện:
Ngoại trừ đá Đoan Khê và Thiệp
ra, chỉ có đá màu xanh lục ở Thao Hà là được người phương bắc quí trọng. Xanh
như lam, mịn như ngọc, phát mặc không kém gì Đoan Khê … Vì đá này nằm sâu dưới
lòng sông sức người không thể tới được cho nên nếu có thì quí vô cùng.
Mễ Phất trong Nghiễn sử nói là vân đá (thủy ba) của
Thao Hà nghiễn có những điểm đen gọi là tiên
mặc điểm (湔墨點). Thao Hà
nghiễn có ba màu chính là xanh lục, tía và vàng, mỗi màu lại chia ra thành nhiều
loại như áp đầu lục (xanh biếc như đầu
vịt), huyền phác (màu đen), huy lục, thúy lục, đạm lục, qua bì hoàng
(vàng màu vỏ trái dưa), hổ bì hoàng, tử
thạch, dương can hồng, âm dương thạch.
Về vân đá người ta cũng phân biệt
các loại thủy ba (lượn như sóng nước), vân khí (như mây) và tùy theo hình dạng
mà người thợ có thể tạo hình cho đẹp.
6.4.
Trừng Nê nghiễn (澄泥硯)
Trừng Nê nghiễn là loại nghiên
duy nhất không làm thẳng từ đá thiên nhiên mà làm từ bùn, khởi đầu từ thời Tấn
và còn sớm hơn cả các loại Đoan nghiễn, Thiệp nghiễn.
Theo lịch sử, Trừng Nê nghiễn được
làm từ thời Tây Hán, sang các thời Đường, Tống và đến thời Minh thì đạt đến cao
điểm của loại nghiên này. Sang đến thời Thanh thì không hiểu vì lý do gì mà
phương pháp chế tác loại nghiên này bị thất truyền. Người ta cho rằng truyền thống
Trung Hoa chỉ dạy nghề cho con trai mà không cho con gái đã khiến cho kỹ thuật
bị gián đoạn. Vua Càn Long đã tìm nhiều cách và tốn nhiều tiền để khôi phục lại
kỹ thuật này nhưng không thành công. Vì đây là kỹ thuật làm đồ gốm nên đây cũng
là một loại tác phẩm nặn tay không khác gì ấm tử sa, nhiều Trừng Nê nghiễn được
bảo tồn từ rất xưa chứng tỏ loại nghiên này rất được coi trọng.
Theo các chuyên gia về nghiên thì
thời Đường - Tống là thời kỳ việc chế tạo rất thuần thuộc và các loại Đoan nghiễn,
Thiệp nghiễn chưa có nhiều nên người ta chuộng Trừng Nê nghiễn. Như trên đã đề
cập, nghiên này làm bắng đất bùn lấy từ trầm tích dưới lòng sông. Trong Trân châu thuyền (珍珠船) thời Minh chép:
Người dân vùng huyện Phong giỏi chế tạo Trừng nghiễn, dùng vải
gói bùn sông Phần để cả năm mới đem lên, khi nặn thành nghiên mới không hút nước.
Trừng Nê nghiễn
Như vậy đất để làm Trừng Nê nghiễn
chính là lấy từ đáy sông Phần (Sơn Tây) nhưng vì thất truyền nên ngày nay không
còn ai biết cách làm như thời cổ nữa. Hiện nay người ta làm như sau:
(1) Lấy bùn (採泥): Bùn lấy
từ hạ lưu sông Phần, huyện Tân Giáng (新絳) là nơi địa thế bằng phẳng nên đất đá tích tụ lâu năm nên
nguyên liệu lấy từ khu vực này đã quyết định phẩm chất của Trừng Nê nghiễn. Việc
tìm kiếm nguyên liệu cần phải theo một số nguyên tắc:
- Bùn phải lấy từ đáy sông nơi
chưa bị ô nhiễm hay khuấy động;
- Bùn phải mịn, không lẫn lộn những
hạt sạn to, sau khi rây rồi còn giữa được độ dính cao;
- Đất phải thuần chất, không pha
trộn nhiều loại khác nhau.
(2) Luyện bùn (澄泥): Bùn lấy
về phải qua nhiều giai đoạn để sàng lọc và khô ráo vừa đủ trước khi được dùng để
chế tạo nghiên. Sau khi cho vào máy đánh cho nhuyễn, người ta dùng vải để rây
bùn hàng chục lần. Sau đó bùn được nhồi bằng tay và để trong bồn lớn với nước
cho lóng xuống.
(3) Nung bùn (焙泥): Việc
nung thành phẩm cần nhiều công đoạn, thêm thức này, bớt thứ khác khiến cho màu
sắc, văn lý thay đổi. Về màu sắc Trừng Nê nghiễn có các màu vàng da lươn, xanh
vỏ cua, xanh lá cây (hay xanh lá trà), đỏ chu sa, đỏ thẫm màu hoa hồng (còn gọi
là đỏ đầu tôm), tía đàn hương …
So sánh nghiên bùn Trừng Nê với
nghiên đá có ba đặc điểm:
- Trừng nghiễn
do nung lửa mà thành nên lệ thuộc vào độ nóng và thời gian, vì thế vân nghiên
đa dạng và nhiều màu;
- Vì là đất
bùn luyện thành nên việc nặn nghiên, điêu khắc, tạo hình làm Trừng Nê nghiễn dễ
dàng và linh họat, dễ có những đường nét tinh tế;
- Vì Trừng
Nê nghiễn là do đất bùn nung thành nên cứng mà không dòn, sáng mà không bóng, mịn
như ngọc khi gõ tiếng kêu như khánh, mài mực xong để lâu không hư và mùa hè
nghiên không nóng, mùa đông không lạnh nên người ta cho rằng cũng ảnh hưởng đến
thư pháp và nét vẽ của người dùng.
Tuy nhiên, kiếm được một chiếc Trừng
Nê nghiễn cũng cam go vì hiện nay, theo nhu cầu thị trường, phần lớn những chiếc
nghiên rao bán không hẳn là nghiên thật mà là đồ giả, có khi là nhựa cây đúc
thành, có khi là loại đất bùn ở nơi khác hay những loại hoá chất rồi sau đó được
tô điểm làm như đồ cũ.
6.5.
Tùng Hoa nghiễn (松花硯)
Từ đời Khang Hi, Thanh triều có một
cơ quan nằm ở phía tây của điện Thái Hòa trong Tử Cấm Thành tên là Tạo biện hoạt kế xứ (造辦活計處), nơi chuyên sản xuất và sửa chữa
những đồ dùng cho triều đình đồng thời giữ sổ sách tồn kho, nhập kho của mọi loại
vật phẩm. Tạo biện xứ bao gồm nhiều công xưởng (作: tác là xưởng làm việc) tức là những khu vực chỉ chuyên về
một ngành chẳng hạn pháp lang, ngọc khí, sơn mài, vũ khí, bản đồ … Những chuyên
ngành này lên dần đến con số 60[14]. Xưởng làm nghiên cũng là một ngành tương đối quan trọng vì
nghiên thường được hoàng đế dùng để ban thưởng.
Vua Khang Hi cũng được cho là người
đã khám phá ra một loại đá mới để làm nghiên thêm vào những nơi danh tiếng cũ
như Đoan Khê, Thiệp Châu. Vùng sản xuất ra loại đá này lại ở ngay trên quê
hương người Mãn Châu, vùng Hắc Long Giang (Liêu Ninh ngày nay) được biết tới dưới
cái tên Tùng Hoa, phẩm chất không kém gì Đoan Khê mà lại có màu xanh lục nhiều
vân đẹp. Tây Thanh nghiễn phổ chép:
Tùng Hoa nghiễn bắt đầu có từ đời Khang Hi. Trần Nguyên Long
nói là nơi sản sinh ra loại đá này ở đông bắc Trung Hoa, vùng sông Tùng Hoa là
nơi có đá mài, chính là nơi phát tích ra nhà Thanh, thời đó vốn là nơi cấm địa
không cho người lui tới nên chỉ có hoàng đế mới cho người đến khai thác mà
thôi.
Tùng Hoa thạch có nhiều màu như
vàng, xanh lục và màu tía, đá cứng mà giòn, màu sắc tươi nhuận. Người từ tác
phường trong cung vua đến đây, theo từng tầng mà tìm màu tạc thành nghiên. Đời
Càn Long, nghiên tàng trữ trong nội phủ rất nhiều màu cực kỳ đẹp mắt.
Trừng Nê hổ phục nghiễn
“Tây Thanh nghiễn phổ cổ nghiễn” tr. 32
7.
Địa phương
Tuy sách vở đề cập nhiều đến bốn
loại nghiên ở trên nhưng không phải đá nơi khác không thể làm nghiên. Nhiều
vùng cũng có đá làm nghiên mà phẩm chất cũng có những đặc tính tương tự như cổ
nhân tán tụng là chất đá nhẵn mịn, mài mực nhanh mà chấm mực không mòn bút, giữ
nước không hút …
7.1.
Hồng Ti nghiễn (紅絲硯)
Sản xuất ở huyện Ích Đô, tỉnh Sơn
Đông, thời Đường Tống là Thanh Châu nên nghiên đá ở đây còn được gọi là Thanh Châu Hồng Ti nghiễn. Loại đá ở đây
nay không còn nên Thanh Ti nghiễn rất
hiếm. Đá làm nghiên màu đỏ, vân như tơ màu vàng, hoặc ngược lại, đá màu vàng có
vân tơ màu đỏ. Loại đá này màu tươi, văn như sóng lượn.
Theo tác giả Liễu Tân Tường thì
đá Thanh Châu mịn như mỡ, mực mài ra giống như có pha dầu, đen như sơn. Liễu
Công Quyền thời Đường luận về nghiên rất coi trọng nghiên loại này, coi là đệ
nhất. Từ thời Tống về sau nghiên Thanh Châu không còn
được sản xuất nữa mãi đến cuối thời Mao Trạch Đông mới lại được khôi phục nhưng
cũng không nhiều.
7.2.
Trạ Khước nghiễn (苴却硯)
Tra Khước nghiễn dùng đá ở Tứ
Xuyên, phía tây bờ sông Kim Sa (tên cũ là huyện Tra Khước) nên cũng còn gọi là Kim Sa nghiễn. Nghiên ở đây có từ đời Đồng
Trị, đá màu tím đen nhưng cũng có những màu khác hiếm hơn. Thớ đá
săn chắc, mịn mặt, nhiều hoa văn. Nghiên Tra Khước mài mực nhanh,
sắc mực đen nhánh, không làm mòn bút. Đá sờ vào như da thịt con nít, hà hơi vào
như có nước đọng, văn nhân rất ưa dùng.
Trong các loại nghiên của Trung
Hoa, Tra Khước nghiễn có nhiều mắt lớn và tròn. Mắt nghiên thuộc loại cù dục nhãn, long nhãn, đan phong nhãn …
mỗi nghiên có từ hàng chục đến hàng trăm mắt. Ngoài mắt nghiên, đá Tra Khước
còn nhiều loại văn như thanh hoa, băng văn, vân văn, hoả tiêu, kim tinh, lục
tiêu, ngọc đái tiêu, hoàng tiêu …
7.3.
Dịch thủy
nghiễn (易水硯)
Sản xuất ở Chung Nam Sơn, huyện Dịch
tỉnh Hà Bắc. Trong sơn động có loại “Dịch thủy thạch” nên khi chế tạo nghiên gọi
là Dịch thủy nghiễn. Người ta có câu
“nam Đoan, bắc Dịch” nên Dịch thủy nghiễn được coi là tốt hạng nhất. Đá Dịch chắc
và mịn, sắc tươi, tiếng gõ vào kêu thanh, cầm nặng tay nên tạo nghiên tốt. Có
hai loại tử thuý thạch và ngọc đại thạch là tốt hơn cả. Hai loại này có màu
vàng nhạt, ngấn và vân màu bích lục, tươi như màu xanh da trời còn màu tía thì
lấp lánh như mỡ đông.
7.4.
Thạch Thành
nghiễn (石城硯)
Sản xuất ở núi Hoàng Thạch, xã
Long Cương, huyện Thạch Thành, tỉnh Giang Tây. Tuy không ai dám khẳng định
nhưng nhiều chuyên gia cho rằng đá ở đây được dùng để chế tạo nghiên từ thời Đường
và phát triển vào thời Tống nhưng sang thời Thanh thì thất truyền. Mãi đến gần
đây, sau khi Trung Quốc mở cửa và khôi phục lại một số ngành nghề, người ta mới
tìm trở về đá Thạch Thành để làm nghiên.
Đá Thạch Thành có nhiều văn thiên
nhiên, nhiều màu, trông như ráng chiều, đồi núi, có khi như thác nước từ cao đổ
xuống nên những người ưa hội họa thường tán thưởng, gọi là “thạch họa” [bức vẽ trên đá], chẳng khác
gì những bức tranh thủy mặc. Đá Thạch Thành là loại ngâm nước từ cổ đại nên mịn
mặt, nhẵn nhụi như da thịt trẻ con, mài mực đen nhuận, chấm mực không mòn bút,
mùa đông mực không kết băng.
7.5.
La Văn nghiễn (羅文硯)
Sản xuất ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh
Giang Tây, đá có văn như tơ nên gọi là la
văn. Từ thời Đường - Tống, nghiên la văn đã được tiến vào cung làm ngự phẩm.
Theo Ngọc Sơn huyện chí thì “Năm Đại Lịch nguyên niên (766) đời Đường bắt đầu khai thác đá la văn”.
Đỗ Oản (杜綰) trong Vân Lâm thạch phổ có viết: “Ở huyện Ngọc Sơn, Tín Châu, tại một làng có
tên là Tân Hiền, dưới dòng suối có loại đá sắc xanh, gõ nghe kêu, dân vùng đó lấy
về làm nghiên, mài mực rất tốt”. Đá thiên nhiên màu xanh da trời, nhẵn bóng,
thuần chất, đôi chỗ có điểm vàng lấp lánh có nhiều loại văn như tế la, giác lãng, cổ tê, ngọc đái, loát ti
… Thạch chất dày mịn, văn như sóng nước, bóng như ngọc, mài mực như dầu.
7.6.
Truy nghiễn (淄硯)
Truy nghiễn còn gọi là kim tinh nghiễn, sản xuất ở vùng Truy
Châu, tỉnh Sơn Đông thường có màu lục, vàng hay màu tím đỏ. Truy nghiễn có từ thời
Đường, Tống, đá mịn như ngọc, cứng nhưng không trơ, dễ mài mực.
Về màu sắc và văn lý của Truy
nghiễn, mỗi màu lại chia thành nhiều loại với tên rất thanh nhã như hà diệp lục,
trúc can lục, giáp sơn hồng, tử vân, cám hồng, cám hoàng …, còn văn thì có trân
châu, phỉ thuý, băng văn đông, kim ngân tinh … Chính vì sự phong phú và biến đổi
tùy theo từng núi, từng hang nên Lục Du thời Tống trong Man Khê nghiễn minh (蠻溪硯銘) đã viết: “Long Vĩ chi
quần, Truy Uẩn ngọc chi bá trọng dã” [15] (Ngọc trong rặng Long Vĩ thì núi Truy núi Uẩn ngang ngửa
nhau). Trong Nghiễn lục (硯錄) cũng chép là: “Truy thạch khả dữ Đoan, Thiệp tương thượng hạ”[16] (Đá Truy cũng không kém gì đá Đoan, đá Thiệp).
7.7.
Đà Ki nghiễn (砣磯硯)
Đà Ki nghiễn sản xuất từ đá ở dưới
các suối tại đảo thuộc huyện Đà Ki, bồng Lai, Sơn Đông. Nghiên phẩm viết là: “Thời Tống
người ta đã lấy đá Đà Ki đẽo thành nghiên, màu xanh đen, chất liệu chắc chắn và
nhỏ hạt, mài mực rất tốt, nghiên nào có điểm vàng hay bông tuyết thì là loại tốt
nhất, cực kỳ khó kiếm”.
Đá Đà Ki có chứa một lượng nhỏ đồng
nên lấp lánh phát quang, sắc đá đen như sơn, hơi ngả qua màu tro, điểm từng chấm
sáng như bầu trời không trăng, có nơi lại như bông tuyết nên được gọi là “tuyết lãng kim tinh nghiễn” [雪浪金星硯].
7.8.
Từ Công nghiễn (徐公硯)
Sản xuất tại một thôn tên là Từ
Công Điếm, huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông nên gọi là Từ Công nghiễn. Sách Lâm Nghi huyện chí có chép: “Từ Công điếm ở phía tây bắc huyện thành 75 dặm
có đá làm nghiên được, hình thể vuông tròn không đều, bên cạnh có những núm vú
nhỏ, không cần phải đẽo gọt nhiều mà vẫn đẹp, thuần phác ưa nhìn”. Các thư
pháp gia nổi tiếng thời Đường như Nhan Chân Khanh, Liễu Công Quyền đều coi trọng
Từ Công nghiễn.
Từ Công nghiễn gõ vào tiếng kêu
như khánh, sờ mịn như ngọc, mài mực sánh như dầu. Màu sắc cũng thay đổi, có đá
xanh vỏ cua, màu lá trà, vàng da lươn, đỏ vỏ quýt … Người thợ thường theo hình
thể thiên nhiên của cục đá mà đẽo gọt nên nghiên Từ Công có nhiều kiểu hình
dáng lạ lùng.
7.9.
Tử Kim nghiễn (紫金硯)
Sản xuất từ đá ở Bát Công sơn, tỉnh
An Huy. Bát Công sơn trước đây có tên là Tử Kim sơn nên nghiên làm từ đá ở đây
gọi là Tử Kim nghiễn. Vân Lâm thạch phổ thời Tống chép: “Đá Tử Kim sơn đào lên có màu tím, đẽo thành
nghiên rất dễ mài mực, gõ nghe tiếng kêu …”.
Tử Kim nghiễn nhiều văn, màu sắc
đẹp, ai cầm lên không muốn rời tay, Mễ Phất đã bảo “trên đời đây là nghiên hạng
nhất, đến Đoan nghiễn, Thiệp nghiễn cũng
không bằng” (人間弟一品,端、歙皆其下).
Về màu sắc thì đá Tử Kim có màu hồng,
vàng, tía, xanh, đỏ thẫm, đen chia ra làm tử kim, ngư tử hồng, nguyệt bạch,
hoàng kim đái, tử hoa đái, hoa ban, xanh vỏ cua, kim hoàng, bích ngọc, mặc ngọc
… Trạng nguyên Vu Mẫn Trung thời Thanh viết trong Tây Thanh nghiễn phổ là “Tử
Kim thạch được dùng làm nghiên từ đời Đường, nay hiếm có, rất ít lưu truyền”.
7.10.
Yến Tử nghiễn (燕子硯)
Yến Tử nghiễn còn có tên là Đa Phúc nghiễn hay Hồng Phúc nghiễn, sản xuất ở Thái An tỉnh Sơn Đông bắt đầu có từ thời
Minh. Trong đá này thường có các loại tam diệp trùng (trilobite, bọ ba thùy)
hoá thạch vì vùng này là trầm tích hàng triệu năm trước. Người Trung Hoa dùng
chữ bức [蝠] để chỉ loại động vật này nhưng cũng cùng với chữ bức trong chữ kép biển bức [蝙蝠] là con dơi, lại đồng âm với phúc là tốt lành. Tây Thanh nghiễn
phổ xếp Yến Tử nghiễn vào hàng đầu những nghiên quí.
7.11.
Ôn thạch nghiễn (温石硯)
Nghiên làm từ đá ở Ôn Tuyền, tỉnh
Sơn Đông nên còn gọi là Ôn thạch, làm
thành nghiên gọi là Ôn thạch nghiễn.
Ôn thạch có màu tía, màu tro có mắt màu lục, lên đến bốn, năm tầng nhưng không
đẹp như đá Đoan Khê. Đá cũng có nhiều văn như thanh hoa, yên chi vựng, chu ban, chu tuyến … Đá Ôn Tuyền vì nằm
sâu dưới nước lâu năm nên thuộc loại nê
thạch, mặt mịn, có điều thường chỉ làm được nghiên nhỏ, hiếm khi có nghiên
to.
7.12.
Ni Sơn nghiễn (尼山硯)
Sản xuất tại Khúc Phụ, Sơn Đông
nơi Ni Sơn chính là quê hương của Khổng Tử. Theo Đại Thanh nhất thống chí thì: “Nghiên
đá ở Ni Sơn, huyện Khúc Phụ, văn lý đẹp đẽ có thể gọi là nhã phẩm”.
Đá ở Ni Sơn có màu lam tro, hoặc
màu vàng đất, vàng nghệ dùng làm nghiên lâu không mòn mà cũng không làm mòn
bút. Trên mặt đá có nhiều văn hình như tùng châm, trúc diệp, lá cỏ hay hoa mai.
7.13.
Điền
Hoành nghiễn (田橫硯)
Sản xuất tại huyện Tức Mặc, tỉnh
Sơn Đông trên một hòn đảo có tên là Điền Hoành. Theo Tức Mặc huyện chí đời
Thanh thì: “Đá Điền Hoành chắc chắn, sắc
đen như mực, ít khi có văn nhưng đôi khi có kim tinh, nếu đục thành nghiên thì
mài mực cũng tốt”.
Đá Điền Hoành do cát màu đen lâu
ngày tạo thành, do một mỏm nham thạch vươn ra ngoài biển chìm dưới nước nên đá
ôn nhuận mà không khô, sớ nhặt và đen, khi soi lên ánh mặt trời thì có điểm lấp
lánh. Đá Điền Hoành cũng cùng một loại như Ôn thạch vì chìm dưới biển nên khi
nào thủy triều rút xuống mới lấy được.
7.14.
Liêu nghiễn (遼硯)
Còn gọi
là Liêu thạch nghiễn sản xuất từ tỉnh Liêu Ninh, thị trấn Bản Khê, cũng có người
gọi là Thanh Tử Vân thạch, cũng là đá
trầm tích. Liêu thạch có hai loại đỏ và xanh lục, nếu có thêm đường vân màu
xanh gọi là “tuyến thạch”.
7.15.
Ngũ Đài
Sơn nghiễn (五台山硯)
Nghiên làm từ đá ở Ngũ Đài Sơn có
tên là Văn Thạch nghiễn hay Đoàn nghiễn. Ngũ Đài Sơn thuộc tỉnh Sơn
Tây, là một trong bốn thánh địa của Phật giáo Trung Hoa. Theo Ngũ Đài tân chí thời Thanh thì núi Đoàn
Miếu còn có tên là Văn Sơn, có đá làm nghiên. Đá Ngũ Đài có năm màu xanh, tía,
lục, tím và đen nhưng hai màu đen và lục là nhiều hơn cả.
7.16.
Tử bào ngọc
đái nghiễn (紫袍玊帶硯)
Gọi tên Tử bào ngọc đái (áo bào tía, đai ngọc) là vì loại đá này có hoa văn
màu tím đỏ và chạy dài như đai ngọc. Loại đá này chỉ có ở núi Phạm Tịnh (梵凈) giao giới các huyện Giang Khẩu,
Tùng Đào, Ấn Giang tỉnh Quí Châu, đá kết thành từng lớp trắng và tím nên thợ
khéo cắt sao cho có thể tạc thành nghiên với hoa văn màu trắng trên nghiên đá
màu tím đỏ.
Người Trung Hoa cho rằng màu tía
là màu tượng trưng cho phú quí, màu trắng là màu cao thượng, thanh khiết nên loại
nghiên này rất hiếm quí.
7.17.
Gia Lăng giang
nghiễn (嘉陵江硯)
Sản xuất ở Hợp Xuyên tỉnh Trùng
Khánh, bắt đầu từ đời Minh. Lý Thực (李實) từng
có thơ tán tụng như sau:
啟墨雲龍舞,運筆虎榜懸。
石膩堪如玉,工藝聖手傳。
貴似翰家客,四寶居一員。
Hạp bạn mao ốc tịch, Xảo công tạc
thạch bàn.
Khải mặc vân long vũ, Vận bút hổ
bảng huyền.
Thạch nhị kham như ngọc, Công nghệ
thánh thủ truyền.
Quý tự hàn gia khách, Tứ bảo cư
nhất viên.
Ở cạnh
bờ sông nơi nhà cỏ vắng vẻ,
Khéo
léo đục một khối đá.
Mực
mài tựa như rồng trong mây,
Bút
múa thì tên treo trên bảng hổ.
Đá mịn
không khác gì ngọc,
Công khéo do thánh truyền lại.
Quí như khách bút mực,
Đây là một trong tứ bảo.
Đá Gia Lăng có màu đen, chắc chắn mịn màng như ngọc, mài mực nhanh,
không làm mòn bút.
7.18.
Kim Âm nghiễn (金音硯)
Sản xuất tại
Trùng Khánh là một loại đá cứng, gõ nghe như tiếng kim loại nên có tên Kim Âm.
Theo truyền thuyết thì Lý Bạch thời Đường là người phát hiện ra đặc tính này
khi sống ở đây nên ông đã đem theo một ít cục đá rồi đục thành nghiên. Đá màu
đen, làm nghiên có tính hút mực nên khi cần chỉ hà hơi có thể thành mực viết.
7.19.
Qui Thạch
nghiễn (龜石硯)
Đá có tại tỉnh
Sơn Đông, nhiều màu sắc tạo thành nhiều lớp giống như thiết diện một cây gỗ, gọi
là thạch tâm. Lõi đá có khi màu vàng, màu trắng, màu xanh … và thường được người
thợ chọn như tâm điểm để mài mực. Qui thạch mịn và không hút nước, dễ mài nhưng
không làm mòn bút, hiện nay rất khó tìm.
7.20.
Kim Tinh nghiễn (金星硯)
Kim Tinh nghiễn
còn được gọi là Hi Chi nghiễn hay Hữu Quân nghiễn, sản xuất tại Phí Huyện,
tỉnh Sơn Đông, trên mặt đá có nhiều điểm vàng lóng lánh, khi đục thành nghiên
thì trông như bầu trời đầy sao cho nên mới có tên là Kim Tinh. Nơi đây cũng là
quê hương của thư thánh thời Tấn là Vương Hi Chi, theo truyền thuyết họ Vương
dùng đá này làm nghiên nên người đời sau gọi là đá Hi Chi, nghiên Hi Chi. Tô Đông Pha đã từng ca ngợi: “Đá đen như sơn, mịn màng như ngọc, kim tinh
khắp nơi, to thì bằng hạt đậu, dễ mài mực, gõ vào thì nghe như tiếng kim loại,
làm nghiên thuộc hạng nhất”.
7.21.
Kim Tinh tống
nghiễn (金星宋硯)
Sản xuất ở tỉnh
Giang Tây, có nhiều loại mắt như miêu
nhãn, phong nhãn, kim khuyên, kim hoa, lãng văn …, lại theo văn mà xếp loại
thì có kim vựng, ngân hoàn, mi tử kim
tinh, ngư tử kim tinh … Đá này gõ tiếng kêu như chuông, hà hơi vào thì tụ
như đám sương mù nên được nhiều người ưa chuộng.
7.22.
Kỳ Dương nghiễn (祁陽硯)
Sản xuất tại
huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam. Theo Hồ Nam thông chí thì đá Kỳ Dương màu lục
rất tốt, tuy không cứng lắm nhưng mịn. Cũng có đá màu tía hồng, vân như hình
sơn thủy, lắm chỗ thành kim bào ngọc đái hay vằn xanh chạy ngang gọi là cẩm
đái. Vì đá Kỳ Dương nhiều màu sắc, lắm vân lạ nên nhiều người thích, kẻ gian
hay giả làm Đoan thạch để đánh lừa người mua.
7.23.
Cúc hoa
nghiễn (菊花硯)
Sản xuất tại
Hồ Nam, có từ đời Càn Long, trên mặt đá thường có động vật hoá thạch, lại có những
lớp đá trắng như hình hoa cúc. Hình hoa cúc cũng nhiều kiểu khác nhau được đặt
tên kim ngân cúc, giải trảo cúc, quí phi
kiểm, trúc diệp cúc, kim tiền cúc … Về tư thái có bông còn chum chúm sắp nở,
có bông lại thịnh khai hết cỡ trông rất lạ mắt.
7.24.
Giả nghiễn
(赭硯)
Sản xuất tại
huyện Tu Thủy, tỉnh Giang Tây vì sắc đá đỏ chót như son nên có tên này. Giả
nghiễn cùng với La Văn nghiễn, Long Vĩ nghiễn, Kim Tinh nghiễn là bốn loại danh
nghiễn của tỉnh Giang Tây.
7.25.
Hạ Lan nghiễn (賀蘭硯)
Dùng đá trên
núi Hạ Lan, Ninh Hạ chế tạo thành. Hạ Lan nghiễn bắt đầu từ đời Khang Hi nhưng
trở nên nổi tiếng từ đời Càn Long. Ninh Hạ
phủ chí (1780) đời Càn Long chép: “Ở
thạch khẩu Cổn Chung, núi Hạ Lan có ba ngọn núi đứng thẳng hình như ba cây bút,
bên dưới có đá có thể dùng làm nghiên”.
Đá núi Hạ
Lan phần lớn màu tím đỏ, có mắt đá, tương tự như đá ở Đoan Khê nên gọi tên là Hạ Lan nghiễn. Đá Hạ Lan có nhiều đặc
tính thích hợp cho việc làm nghiên, có nhiều mắt, nhiều vân lạ nên người đời
thường truyền tụng “nhất Đoan, nhị Thiệp,
tam Hạ Lan” là thế.
7.26.
Tư Châu nghiễn (思洲硯)
Tư Châu nghiễn
còn được gọi là Tư nghiễn hay Tư Châu kim tinh nghiễn, lấy từ đá ở Quí
Châu, nhiều đời được liệt vào hạng “cống phẩm” hay “ngự nghiên”. Trong số
nghiên hiện nay giữ trong Cố cung bác vật
viện Bắc Kinh còn loại nghiên này. Theo Quí
Châu thông chí thì: “Trong núi Đoàn
Sơn thuộc Quí Châu có kim tinh thạch, chắc chắn mịn màng có thể làm nghiên”.
Theo Tư Châu phủ chí thì đá này sắc
màu xanh đen, trong có điểm vàng nhưng kiếm được đá này rất khó vì nằm sâu dưới
đáy hồ trong sơn động …
7.27.
Thiên Đàn
nghiễn (天壇硯)
Còn gọi là
Bàn Cổ nghiễn sản xuất tại Tế Nguyên, tỉnh Hà Nam, được dùng làm nghiên từ thời
Đông Hán. Tô Thức thời Tống từng có
thơ rằng :
石自天壇產出,松煙磨去生香,
雖然質樸古雅,卻能細膩風光。
Thạch tự Thiên Đàn sản xuất,
Tùng yên ma khứ sinh hương.
Tuy nhiên chất phác cổ nhã,
Khước năng tế nhị phong quang.
Đá sản xuất ở núi Thiên Đàn,
Mài mực Tùng Yên thơm ngát.
Tuy rằng chất phác cổ kính,
Nhưng lại mịn màng bóng bẩy.
Đá Thiên Đàn có đến hơn ba mươi loại khác nhau, có nhiều màu sắc tía,
vàng, đỏ, lục … lại nhiều văn kỳ lạ, trong đó có loại “tử mẫu thạch” là quí nhất. Loại đá này màu tía thì giống như Đoan
nghiễn, màu lục thì lại như Thao Hà, giữa hai màu lại như Hạ Lan, nên rất đẹp.
7.28.
Hào Châu nghiễn (號洲硯)
Sản xuất tại Linh Bảo, tỉnh Hà Nam. Linh Bảo trước đây tên gọi Hào Châu
nên có tên này. Đá Hào Châu được dùng làm nghiên từ thời Đường, chủ
yếu là màu tía nhưng cũng có màu vàng, màu lục. Mễ Phất thời Tống trong Nghiễn sử viết : “Đá Hào Châu, mịn như bùn, màu tía thì rất đẹp, dễ mài mực, dùng lâu khi
đá mòn đi thì mài mực có ám mùi bùn”.
7.29.
Hoàng Thạch
nghiễn (黄石硯)
Sản xuất tại
Tiểu Lãnh Sơn, Hà Nam. Nhân truyền thuyết nơi đây là nơi Hoàng Thạch Công truyền
thụ binh pháp cho Trương Lương nên mới gọi là Hoàng Thạch Sơn. Đá ở đây có nhiều
mắt, đẹp không khác gì đá Đoan Khê nhưng rất khó kiếm. Hoàng Đình Kiên thời Bắc
Tống thừng nhiều lần ca tụng chiếc nghiên làm bằng Hoàng Thạch của mình.
7.30.
Linh Bích
nghiễn (靈璧硯)
Sản xuất
tại huyện Linh Bích, tỉnh An Huy. Đá ở đây có màu xanh, chắc mịn khá cứng, gõ
vào nghe như tiếng kim loại. Đá ở đây đã bị xói mòn hàng nghìn năm nên hình thù
kỳ dị, làm nghiên cũng tốt mà làm giả sơn cũng lạ lùng nhưng thường thì người
ta ít đẽo gọt, một phần vì đá rất cứng, phần khác muốn duy trì tính chất thô tạo,
phác thực của thiên nhiên.
7.31.
Nhạc Thạch
nghiễn (樂石硯)
Nhạc Thạch
là loại đá khi gõ vào nghe vang như tiếng kim loại sản xuất ở Túc Châu, tỉnh An
Huy được tôn xưng là có cả bốn ưu điểm thanh, sắc, thái, chất.
Nhạc Thạch phần lớn màu đen nhưng cũng chia ra nhiều cấp độ, đen
tuyền, đen xanh, màu tro …
7.32.
Thanh Khê
nghiễn (青溪硯)
Đá Thanh Khê
còn gọi là Long nhãn thạch, sản xuất
tại Chiết Giang. Thời Tống Phương Lạp khởi nghĩa từng đi qua đây, nay còn chữ
ông viết “Thạch nghiễn trì” ở cửa động.
Theo màu sắc, chất loại và phẩm người ta chia làm ba cấp: vân long thạch, trên mặt có văn như hình mây đầy kim tinh; vũ giáp tuyết thạch, đá màu tro có điểm
ngân tinh màu trắng; mi tử thạch là
trên mặt đá có rất nhiều đường lông màu vàng.
7.33.
Việt nghiễn (越硯)
Sản xuất ở
Thiệu Hưng, Chiết Giang vốn là kinh đô của nước Việt cũ nên nghiên ở đây gọi là
Việt nghiễn. Theo truyền thuyết,
Vương Hi Chi, thư pháp gia nổi tiếng viết Lan
đình tự dùng nghiên đất Việt, giấy làm bằng kén tằm (tàm kiển), bút bằng râu chuột.
Việt nghiễn
có các màu tía, đỏ, tím gan lợn và màu tro xanh, rất đẹp và biến hoá. Hoa văn
trên đá lại càng phong phú, chỗ chìm chỗ nổi, khi thì xanh đậm như áo văn nhân,
khi thì màu xanh nhạt như tàu lá chuối, khi thì trắng ngư não hay chạy chỉ vàng,
vằn vện như da cọp, lại có khi như bào tía, đai ngọc … Bốn danh sĩ đất Ngô đời
Minh Thanh là Đường Dần, Văn Trưng Minh, Chúc Doãn Minh và Từ Trinh Khanh đều
thích Việt nghiễn nên nghiên này được coi là trân bảo.
7.34.
Tây nghiễn (西硯)
Sản xuất tại
Tây Khê, tỉnh Chiết Giang, là đá dưới lòng khe suối nên gọi là Tây thạch nghiễn, còn gọi là Tử Kim thạch nghiễn nhưng khác biệt với
nghiên ở An Huy, Sơn Đông có cùng tên. Theo nhiều người thì nghiên làm bằng đá
dưới suối Tây Khê tốt không kém gì Đoan nghiễn nên trong nhiều đời được dùng làm
cống phẩm.
Tây thạch chủ
yếu có màu tím đỏ, nhưng trong thớ đá có văn màu xanh, trắng hay vàng nên cũng
phân ra tử thạch, tử kim thạch, kim tinh, ngọc đái, tử bào ngọc … nhiều loại.
7.35.
Ân Châu nghiễn (恩洲硯)
Sản xuất ở
Ân Bình, Quảng Đông vốn thuộc Ân Châu nên gọi như thế. Đá ở đây có hoa văn lạ
lùng, loang lổ gọi là hoàng long văn,
hoàng phiêu, kim tuyến … Vì màu sắc của Ân nghiễn giống như Đoan nghiễn nên
có nhiều người làm giả nghiên Đoan Khê bằng đá ở Ân Châu.
7.36.
Liễu nghiễn (柳硯)
Còn gọi là
Long Bích nghiễn, sản xuất tại Liễu Châu, Quảng Tây. Thời Đường, Liễu Tông
Nguyên tìm ra loại đá này đem về làm nghiên nên từ đó có tên. Đá lấy từ lòng
sông Liễu rất khó khai thác nên hiếm có và cũng không thấy sách vở nào nói đến.
7.37.
Loa Khê nghiễn (螺溪硯)
Sản xuất tại
huyện Chương Hóa, Đài Loan, nơi suối Độc Thủy. Vì dòng suối này quanh co, uốn xoáy như trôn ốc nên còn có tên là Loa Khê,
dưới lòng suối có đá làm nghiên gọi là Loa
Khê nghiễn.
Đá Loa Khê
chủ yếu lấy ở hạ nguồn suối Độc Thủy, đá phần lớn hình tròn, nhẵn nhụi, độ cứng
cao nên dùng lâu không mòn. Đá có màu đen, lục, vàng, trắng, đỏ và có cả những
màu pha trộn lẫn văn lý trông rất đẹp. Trước đây, khi Đài Loan còn thuộc Nhật Bản,
người Nhật khai thác đá Loa Khê đem về chính quốc nên ngày nay nghiên cổ ở Nhật
còn nhiều, thường giữ lại nhiều phần thiên nhiên bên ngoài, không đục đẽo.
7.38.
Giác Thạch
nghiễn (角石硯)
Giác Thạch nghiễn
sản xuất tại huyện Tân Phong, tỉnh Sơn Tây có các loại đá do sinh vật hóa thạch,
đá giống như sừng có nhiều hoa văn. Giác nghiễn được ghi nhận từ đời Tống, Âu
Dương Tu trong Nghiễn phổ chép là: “Giống như sừng tê trắng, trơn nhẵn…”.
Giác Thạch là bùn lâu năm kết tầng, cứng và chắc, mịn mặt làm nghiên rất tốt.
7.39.
Thủy Xung
nghiễn (水冲硯)
Sản xuất tại
vịnh Thủy Xung, Hồ Nam. Càn Châu sảnh chí
thời Thanh chép : “Nghiên đá Thủy Xung sắc
màu xanh nhạt, cứng và mịn dễ mài mực, có hơi màu vàng mà hoa văn thì lại có
hình như sơn thủy, hoa cỏ …”.
Dùng nghiên Thủy
Xung, mài mực không nghe tiếng, thành mực rất nhanh, dùng lâu mực như phát
quang.
7.40.
Đại Đà nghiễn (大沱硯)
Sản xuất ở Hồ
Bắc lấy từ đá ở dưới lòng sông Dương Tử mà người địa phương gọi sông là “đà” nên mới gọi là “đại đà” (sông lớn). Đá ở đây màu xanh thẫm, có nhiều văn, cứng và
chắc, gõ lên có tiếng kêu, cũng đôi khi có màu vàng, màu lục. Vì phải lấy từ
lòng sông nên loại nghiên này hiếm có.
7.41.
Hoạch thôn nghiễn (蠖村硯)
Còn có tên
Tàng Thư nghiễn sản xuất ở Hoạch Thôn (nay đổi tên Tàng Thư thôn) tại Giang Tô,
cũng gọi là Linh Nham thạch, rất giống Trừng Nê nghiễn. Nghiên Thạch thôn mặt mịn,
dễ khắc nên những tác phẩm đục trên nghiên thường linh hoạt, sắc sảo.
7.42.
Gia Dục nghiễn (嘉峪硯)
Sản xuất tại
núi Quan Hắc, thuộc huyện Gia Dục tỉnh Cam Túc nên gọi là nghiên Gia Dục. Đá ở
đây chủ yếu màu xanh tro nhưng cũng có màu khác, mài mực nhanh, không làm mòn
bút, thường được du khách mua làm kỷ niệm.
8.
Các loại mắt nghiên
Các loại nghiên đá thường chỉ nhiều
màu sắc và có vân, riêng đá Đoan Khê lại có những vân hình tròn gọi là mắt đá (thạch nhãn). Mắt đá Đoan Khê hình trông
giống như mắt chim, mắt thú màu sắc xanh hay vàng, ngả màu trắng, lớn nhỏ không
đều từ khoảng 3-5mm nhưng cũng có khi lên đến 8-15mm.
8.1.
Cù dục
nhãn (鸜鵒眼)
Gọi là cù dục nhãn là mắt có hình xanh lục, giữa là chấm vàng, biếc hay
xanh lá cây nhiều vòng hình tròn hình dáng trông giống mắt con chim sáo, nên có
tên cù dục nhãn. Loại này cũng còn được gọi tên là bát ca nhãn, đường kính khoảng
chừng 10mm, có khi lớn đến 20mm, quí nhất là màu xanh cánh trả, phân ra rõ ràng
từng lớp, luân quách phân minh, đồng tử rõ rệt.
Tào Dung trong Nghiễn lục viết là “mắt bên ngoài tròn, bên trong màu biếc, đoan chính, hữu thần, tầng lớp
phân minh, tùy theo mà có chín, bảy hay năm tầng, giữa là con ngươi, óng ánh
như muốn chiếu sáng”.
Cù dục nhãn hiếm nên nghiên mực
có cù dục nhãn rất quí và chỉ thấy ở những hầm đá xưa, nay không còn nữa.
Cù dục nhãn[17]
8.2.
Anh ca
nhãn (鸚哥眼)
Là loại mắt màu cánh trả, trong
có đồng tử màu vàng và đen, nhỏ hơn cù dục nhãn nhưng cũng là loại hiếm quí.
8.3.
Kê ông
nhãn (鷄翁眼)
Cũng còn gọi là công kê nhãn
trông giống như mắt gà trống, hình tròn, màu vàng xanh, giữa có đồng tử tương đối
rõ rệt.
8.4.
Tước nhãn (雀眼)
Tròn giống như mắt chim sẻ, màu
vàng lục, to khoảng từ 5-6mm.
8.5.
Miêu nhãn (猫眼)
Màu vàng, có một đường kẻ dọc sản
sinh ở vùng Bắc Linh sơn.
8.6.
Nga nhãn (鵝眼)
Hơi dài chứ không tròn, màu vàng
lục, đồng tử màu vàng đen, có cái song trùng đồng (hai con ngươi).
8.7.
San hô điểu
nhãn (珊瑚鳥眼)
Chung quanh mắt màu xanh, đồng tử
thì màu đỏ.
8.8.
Tượng
nhãn (象眼)
Hình nhỏ và dài, giống mắt voi,
màu vàng.
8.9.
Tượng nha
nhãn (象牙眼)
Màu trắng ngà.
8.10.
Nha nhãn (鴉眼)
Mắt tròn, màu vàng, đồng tử cũng
màu vàng.
8.11.
Lục đậu
nhãn (綠豆眼)
Màu và hình dáng giống hạt đậu
xanh, không có đồng tử.
8.12.
Loa nhãn (螺眼)
Hình không tròn, trông như con ốc,
rất thường thấy ở Đoan nghiễn và nhiều nơi khác.
Khi tìm thấy một phiến đá có mắt,
nghệ nhân thường gò cho mắt đá phù hợp với hình ảnh mà họ dự định điêu khắc (鑲眼 tương
nhãn), chẳng hạn vầng thái dương, mặt
trăng, vì sao hay trái châu mà con rồng đang đùa rỡn. Việc sử dụng vân đá hay mắt
đá vào toàn cảnh sẽ làm tăng thêm giá trị của chiếc nghiên rất nhiều. Tuy nhiên
ngày nay cũng không hiếm người tạo nên mắt giả để đánh lừa khách hàng.
9.
Bảo tồn
Cũng có nhiều qui luật mà người
dùng nghiên phải tuân thủ để có thể giữ cho chiếc nghiên được lâu bền, không
suy giảm những tính chất mà chủ nhân mong đợi.
Trước hết, nghiên lớn nhỏ cũng tùy
theo mình dùng để làm gì mặc dầu không có một qui tắc nhất định. Nghiên lớn thường
mài nhiều mực dành cho người viết thư pháp, nghiên nhỏ dùng để mài mực viết thường
ngày. Những loại nghiên quá nặng phần trang trí thường khó lau chùi, rửa nên dễ
bị mực đóng vào những khe đá và mất nhiều công lao làm cho sạch.
9.1.
Rửa
nghiên
Theo những người chuyên môn,
nghiên nên rửa sau khi dùng. Cổ nghiễn khảo
chép: “Thà không rửa mặt ba ngày nhưng
nghiên không thể không rửa mỗi ngày”. Người ta cũng không dùng những vật liệu
thô cứng để chà nghiên mà dùng vải hay bọt biển mềm. Nghiên sau khi rửa phải để
cho khô, thường là úp xuống một mảnh vải sạch.
9.2.
Không để
đọng mực
Mực vốn làm từ keo và than nên những
loại mực xấu có thể ăn sâu vào nghiên đá khiến cho mặt nghiên bị rỗ mặt, mất vẻ
nhẵn nhụi tươi mát. Mực để lâu cũng mất màu, ngả màu xám viết chữ không đen
nhánh. Hai loại tùng yên mặc (mực làm
bằng than cây tùng) và du yên mặc (mực
làm bằng bồ hóng) tính chất cũng khác nên các chuyên gia khuyên nếu dùng hai loại
này nên dùng hai nghiên khác nhau.
9.3.
Chà nhẵn
Nghiên dùng lâu cũng thường có những
vết ngấn hay trầy xước. Để trừ bỏ những ngấn xước này, người ta thường dùng loại
giấy nhám thật mịn để chà lại cho nhẵn. Đá làm nghiên cũng khá cứng nên việc
chà láng phải kiên nhẫn, mất nhiều công phu. Sau khi chà bằng giấy nhám, người
ta dùng tro bếp trộn nước sền sệt, đánh bóng lại cho thật kỹ rồi rửa sạch.
9.4.
Ngâm nước
Nhiều người cho rằng vì các loại
đá làm nghiên vốn dĩ ngâm trong nước trước khi đào lên, hoặc trong những hang động
ẩm ướt nên lâu lâu cũng nên ngâm trong nước sạch một thời gian để trở lại
nguyên trạng.
Nghiên lâu không dùng cũng nên
bôi một lớp dầu chùi gỗ mỏng như một hình thức sơn để cách biệt với không khí
và cũng làm cho nghiên thêm tươi nhuận.
9.5.
Tránh nắng
Nghiên mực cũng không nên để bị nắng
chiếu vào lâu, đưa đến tình trạng khô mặt (乾燥), cũng không nên để va chạm với các đồ kim loại, thủy tinh
… khiến cho nghiên bị mẻ sứt.
9.6.
Mài mực
Người mình có câu: “Mài mực ru con, mài son đánh giặc” ý nói
việc mài mực cần chậm rãi điều độ trong khi mài son thì phải nhanh và mạnh tay
hơn. Với những người chuộng nghiên quí, việc có được những thỏi son hay thỏi mực
tốt là việc cần thiết để cho xứng tầm. Nếu dùng mực đựng trong lọ theo kiểu
công nghiệp ngày nay thì cái nghiên không còn cần thiết mà một cái đĩa nông nào
cũng có thể dùng được.
Mài mực có hai cách: một là mài
thành hình vòng tròn, hai là mài theo chiều thẳng lên xuống. Mài theo hình tròn
thì nghiên mòn đều hơn và dùng lâu thường có một vùng lõm xuống như hình chảo.
Nước dùng mài mực nên dùng nước
trong tinh khiết và không nên dùng những loại nước bẩn, nước trà … để mài mực
hay mài son.
Lăng Kính nghiễn
10.
Nghiên thời Thanh
Thời kỳ này, việc điêu khắc nghiên
trở thành một bộ môn nghệ thuật, các vùng Tô (Tô Châu), Chiết (Chiết Giang), Hỗ
(Thượng Hải) có lối tạo hình thanh tú, thoát tục người đời gọi là Tô phái (蘇派) hay Hải phái (海派). Kế đến vùng Quảng Đông, Phúc
Kiến có lối điêu khắc tỉ mỉ, phồn phức được gọi là Quảng phái (廣派) hay Lĩnh Nam phái
(岭南派). Bên cạnh đó, nghiên dùng trong
cung đình có lối điêu khắc qui củ, chính đáng đượm màu phú quí nên được gọi là Cung tác (宮作). Sau nữa là nghiên của người đọc sách, cốt sao toả được
phong vị thư hương, nho nhã và chót hết là nghiên dành cho đại chúng, cần thực
dụng, kể cả về chất liệu lẫn công phu cốt giản dị, dễ dùng, dễ bảo trì.
10.1.
Việt phái (粵派)
Việt phái chủ yếu là nghiên Đoan
Khê, phong cách được mở đầu từ thời Minh, thường gọi là Quảng Tác, lối điêu khắc
thường tỉ mỉ, chủ yếu là khắc theo kiểu phù điêu hay vẽ theo đường nông phong cảnh,
điểu thú, núi non … Dưới thời Minh - Thanh, Việt phái có những danh thủ như La
Phát (羅發), La Trừng
Khiêm (羅澄謙), Hoàng Thuần
Phủ (黄純甫) và anh em La Tán (羅贊), La Bảo (羅寳) rất nổi tiếng.
10.2.
Huy phái (徽派)
Huy phái chủ yếu là Thiệp nghiễn,
thời Minh - Thanh cũng chú trọng phù điêu và khắc nông (thiển khắc), phần nhiều
tạc nghiên theo hình vuông hay tròn, bên ngoài mặc trì thường rộng rãi.
Dưới thời Minh - Thanh, các danh
thủ Huy phái phải kể đến Diệp Khôi (葉瑰), Uông Phúc Khánh (汪覆慶) là nổi tiếng hơn cả.
10.3.
Tô phái (蘇派)
Còn gọi là Ngô Môn phái, có phong thái nhã
dật, bình đạm để tỏ cái chí cao khiết. Nghiên Tô phái chủ yếu là tùy theo
hình thể của tảng đá mà tạo dáng, hoa mỹ nhưng tự nhiên, đi theo bốn đời họ Cố ở
Tô Châu bao gồm Cố Đạo Nhân (顧道人), Cố Thánh Chi (顧聖之), Cố Khải Minh (顧啟明), Cố Nhị Nương (顧二娘).
Đến thời Dân quốc, phái Thượng Hải
có Trần Đoan Hữu (陳端友) chủ trương tả thực được coi như tách riêng thành một dòng
Hải phái. Trần Đoan Hữu (1892-1959), tên Giới, tự Giới Trì, người Giang Tô, khắc
nghiên lấy tự nhiên làm gốc như điểu thú, thảo trùng, hoa quả … rất là tinh xảo.
10.4.
Cung tác (宮作)
Dưới thời Khang Hi, Càn Long văn
phòng tứ bảo do Nội Vụ phủ Tạo biện xứ trưng điệu các thợ khéo từ nhiều nơi vào
trong cung nên làm được nhiều nghiên quí, lớn bằng cái chậu cũng có mà nhỏ như
bàn tay cũng có. Vua Càn Long còn thành lập riêng một cơ xưởng trong Tạo biện xứ,
tập trung thợ khéo chuyên làm nghiên để dùng trong cung và để làm tặng phẩm.
Tạo biện xứ chế tạo nghiên theo sở
thích của hoàng đế, họa sĩ vẽ mẫu trình lên, sửa theo ý của nhà vua trước khi
đưa xuống cho thợ làm. Vua Càn Long đặc biệt chuộng Tùng Hoa nghiễn và nhiều
chiếc do chính ông thiết kế rồi các thợ khéo sẽ theo ý mà chế tạo. Chính từ
giai đoạn này, nghiên ra khỏi cái công dụng ban đầu là để mài mực mà trở thành
một tác phẩm điêu khắc, phô diễn sự dụng công của người tạo ra nó.
Nghiên mực thường được dùng làm
quà, trong danh sách các món quà của hoàng đế nhà Thanh ban thưởng cho sứ thần
các nước, nghiên, bút, mực, giấy là những phẩm vật ban tứ không thể thiếu.
11.
Bài minh trên chiếc nghiên
Bài minh là văn thơ khắc ngay
trên chiếc nghiên hay hộp đựng nội dung có liên quan trực tiếp đến việc tạo ra
chiếc nghiên này. Bài minh thường khắc ở bên cạnh hay tại dưới đáy nghiên, bằng
nhiều thể chữ chân lệ triện thảo sao cho nghệ thuật. Bài minh cũng được viết
theo nhiều loại tản văn, thi từ, chia ra 5 loại khác nhau:
11.1.
Minh ký
Thường ghi lại tên người chế tạo
hay sử dụng, thời gian, địa điểm làm nghiên.
11.2.
Thi từ
Chọn một hay nhiều câu có ý nghĩa
để khắc lên mặt nghiên như một hình thức làm đẹp, chẳng khác gì điểm nhãn cho
con rồng.
11.3.
Dĩ vật vịnh
nghiên
Dùng lời lẽ tán thưởng, tỏ cảm
xúc về chiếc nghiên.
11.4.
Ký sự
Dùng một việc gì đó hay một trải
nghiệm để ghi nhớ.
11.5.
Quĩ tặng
Dùng nghiên như một món quà tặng,
chúc mừng …
Nghiên Trừng Nê thời Thanh với bài
minh ở mặt sau
Trịnh Gia Diệp, bđd. tr 31
12.
Kết luận
Trong khoảng 20 năm gần đây, khi
việc mua bán qua internet phát triển và Trung Hoa mở cửa đưa đến việc hàng hoá ồ
ạt xuất cảng ra bên ngoài, nhiều mặt hàng vốn dĩ khó kiếm vào thời xưa thì nay trở
nên phong phú có thể mua với giá phải chăng dựa vào ưu điểm nhân công rẻ. Đoan
nghiễn, Thiệp nghiễn, nhiều món đục chạm rất tinh vi, vào thời điểm 20 năm trước
chỉ từ 50 đến 200 USD, trong khi giá hôm nay có thể lên đến bạc ngàn dẫu khó có
thể biết rằng những nghiên ấy dùng vào việc mài mực có thực kỳ diệu như tiếng đồn
hay không?
Tôi cũng đã viết một bài ngắn về Bút Nghiên Giấy Mực để dùng làm phụ lục
khi dịch truyện Kim Dung[18].
Văn phòng tứ bảo vốn dĩ là những người bạn thân thiết nhất của nhà nho nên luôn
luôn có nhiều điều đáng nói. Người Trung Hoa nhiều khi còn thêm 4 món phụ để
thành “bát bảo”.
Riêng về nghiên mực, ở nước ta thời
xưa không thấy đề cập nhiều. Hình như chưa có một bản văn cổ nào của nước ta viết
riêng về nghiên nói chi đến những tìm hiểu sâu rộng. Bản thân tôi cũng chưa bao
giờ tận mắt thấy một cái nghiên cổ trong số ngoạn vật sưu tầm của người quen biết
mà chỉ thấy đồ sứ, tủ chè, sập gụ, ấm trà … là những món được ưa chuộng, dễ
chia sẻ kinh nghiệm và trao đổi hơn. Việc tách đời sống ra khỏi không khí hàn mặc
cũ khiến chúng ta ít tha thiết đến những gì trước đây vốn gần gũi với nhà nho.
Ca dao ta có câu:
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ.
Vậy mà trong nhiều năm qua,
nghiên bút hầu như hoàn toàn biến mất trong sinh họat hàng ngày, nếu có xuất hiện
họa chăng chỉ ở vài nhà nho “mới”
trên vỉa hè ở phố “Ông Đồ” trong dịp
Tết như để làm cảnh cho sinh họat dân gian thêm màu sắc và cũng lạnh lùng qua
đi sau vài ba tuần.
Gần đây, khi đọc một số bài báo
cũng thấy có người Việt Nam sưu tầm nghiên cũ nhưng cũng không có được mấy món
xuất sắc, thường chỉ là những dụng cụ mài mực hàng ngày chứ không phải là những
đặc phẩm trong truyền thuyết. Về nghiên quí ở nước ta, người ta đồn về hai chiếc
nghiên cổ trong cung vua được nhắc đến cùng có tên là Tức Mặc hầu, một cái đời
Thiệu Trị, một cái đời Tự Đức với nhiều giả thuyết và nghi hoặc về sự thất tung
của nó[19].
Ngược lại, nghiên cũ và mới tại
những quốc gia khác còn khá nhiều, Trung Hoa thì không nói gì vì đây là quê
hương của nghiên bút, nhưng kế đến ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan …
cũng không ít. Có lẽ nghiên bút tồn tại được là vì đây là những dụng cụ gắn liền
với chữ viết, tuy đã thay đổi nhưng chữ Nhật, chữ Hàn chỉ là biến thể của chữ
Hán, còn nước ta thì hầu như đã tách ra khỏi dòng văn mặc cũ để chuyển sang một
hướng mới khi dùng mẫu tự Latin.
Việc sưu tầm nghiên nay cũng khá
phổ biến nhất là vào thời đại mà giao lưu quốc tế, kinh tế thị trường nở rộ nên
nghiên cũng được nhiều người trong giới sưu tầm quan tâm. Tuy nhiên, nghiên mực
ít người mua về để dùng mà thường để chưng nên không có cái giá trị “càng cũ càng quí” qua quá trình gắn bó với
chủ nhân, nhất là khó có thể chứng minh được nguồn gốc để biết nó giá trị tới mức
nào. Về phương diện kỹ thuật hay mỹ thuật, nghiên mới làm thường tinh xảo và đẹp
hơn nghiên cũ nhưng nhiều khi đi quá phạm vi thực dụng và chỉ để trưng bày như
một tác phẩm điêu khắc hơn là dùng vào việc mài mực, viết chữ. Trên thực tế, số
người coi thư pháp, họa pháp như một sở thích đặc biệt ngày nay không nhiều nên
việc kén chọn, thưởng ngoạn nghiên tốt cũng giảm đi và sưu tầm nghiên cũng
không khác gì việc sưu tầm đá lạ.
Chính vì thế, trong bài viết này,
người viết không nhằm cung cấp cho độc giả những chi tiết ly kỳ về những món đồ
cổ mà chỉ là một nghiên cứu văn hoá để nhắc đến một người bạn đồng hành của giới
đọc sách qua hàng nghìn năm, đóng góp không nhỏ vào việc viết lách của người
xưa nhưng càng lúc càng ít quen thuộc.
Tài liệu
tham khảo
1. Bách Khoa
thời đại, số đặc biệt 290-291 ngày 1 và
15-2 năm 1969.
2. Bộ Ngoại Giao (1967). Vietnamese Realities, Saigon.
3. Bulletin des Amis du Vieux Hué (4e année No 3,
Jullet-Sept 1917). Sur un encrier de Tu-duc par E. Gras (207-8) ; Planche
XXVIII - L’encrier de Tu-Duc (Aquarelle de M. Ton-That-Sa) (giữa trang
208-209) ; L’encrier de S. M. Tu-Duc : Traduction des inscriptions
par Ngô-Đình-Diệm, cửu phẩm au Tân Thơ Viện, (209-212).
4. Fang, Jing Pei (2004). Symbols
and Rebuses in Chinese Art - Figures, Bugs, Beasts, and Flowers.
Berkeley/Toronto: Ten Speed Press.
5. Guangdong Provincial Museum và
The Art Gallery, The Chinese University of Hong Kong (1995). Tử thạch ngưng anh: Lịch đại Đoan nghiễn nghệ
thuật (紫石凝英:歷代端硯藝術). The Quintessential Purple Stone: Duan Inkstones Through the Ages.
Hương Cảng Trung Văn Đại Học văn vật quán.
6. Hoa, Từ Tường (華慈祥, 2012). Trung
Quốc cổ nghiễn (中國古硯). Thượng Hải: Thượng Hải Nhân Dân
xbx.
7. Ko, Dorothy (2017). The Social Life of Inkstones: Artisans and
Scholars in Early Qing China. Seattle and London: University of Washington
Press.
8. Lâm, Diệc Anh (林亦英, 2002). Nam bang
văn vật: Quảng Đông truyền thống công nghệ (南邦文物: 廣東傳統工藝) [Gems from The South - Traditional Crafts of
Guangdong Province] The University of Hong Kong.
9. Liễu, Tân Tường (柳新祥, 2011). Trung
Quốc nghiễn đài thu tàng vấn đáp (中国砚台收藏问答). Trường
Sa: Hồ Nam Mỹ Thuật xbx.
10. Mỹ thuật từ lâm, Công nghệ
mỹ thuật (美术辞林·工艺美术) (1989). Thiểm Tây: Nhân Dân Mỹ Thuật
xbx.
11. Nguyễn, Duy Chính (2018). Bút
Nghiên Giấy Mực. Tp. HCM: Văn Hoá - Văn Nghệ.
12. Quốc lập Cố Cung bác vật viện (國立故宮博物院, 1990). Văn vật quang hoa (1) (文物光華). Đài Bắc: Quốc
lập Cố Cung bác vật viện.
13. Tôn, Thư An (孙书安, 2000). Trung
Quốc bác vật biệt danh đại từ điển (中国博物別名大辞典). Bắc Kinh: Bắc Kinh xbx.
14. Thái, Văn Kiểm (1957). Viet Nam:
Past and Present (không đề nơi in).
15. Thái, Văn Kiểm (1956). Viet-Nam d’hier et d’aujourd’hui (ấn
hành dưới sự bảo trợ của Bộ Quốc gia Giáo dục) Saigon.
16. Trịnh
Gia Diệp (1997). “Tây Thanh nghiễn phổ cổ nghiễn” (西清硯譜古硯). Đài Bắc: Cố cung văn vật nguyệt san, số 167, February.
17. Viện Sử học (Viện KHXHVN) (2007).
Đại Nam thực lục (tập sáu). Hà Nội: Nxb.
Giáo Dục.
18. Vương, Hồng Sển (1995). Hơn nửa đời hư, California. Văn Nghệ.
19. WM. Ingraham Kip (1875). Historical Scenes from the Old Jesuit
Missions. Anson D. F. Randolph and Company, New York.
20. Christie’s
Catalogue (2015), Fine Chinese Ceramics & Works of Art (Part I)
New York 17 Sept.
21. Ngô Lạp Cốc (吴笠谷, 2006). Nghiễn trước Ô Long (砚著乌龙) - Trung Quốc trừng nê cổ giám thưởng chứng ngụy (中国澄泥古鉴赏证偽). Bắc Kinh:
Tạp chí Thu Tàng Gia (收藏家)
Collectors (10/120).
22. Hà Hồng Nguyên (何洪源, 2006). “Quan
chu văn chấn hội họa dữ nghiễn thạch tùy bút” (观朱文震绘画与砚石隨笔). Bắc Kinh: Tạp chí Thu Tàng Gia (收藏家) Collectors (10/120).
*
California, Hoa Kỳ.
[1] Còn đọc là Mễ Phế
[2] Còn đọc là Hấp nghiễn
[3] Trịnh Gia Diệp
(1997). “Tây Thanh nghiễn phổ cổ nghiễn” (西清硯譜古硯). Đài Bắc: Cố
Cung Văn Vật Nguyệt San số 167, February, tr. 23-4.
[4] Phép vẽ của Trung Hoa không
vẽ bóng (shadow) nên trông phẳng. Hội hoạ theo lối Tây phương có viễn cảnh và tô bóng để
có chiều sâu do các giáo sĩ Âu châu đem vào nhưng cũng không mấy người học hỏi
và áp dụng.
[5] Tôn Thư An
(2000). Trung Quốc
bác vật biệt danh đại từ điển, tr. 475.
[6] Nghiên này thuộc
loại viên hình nghiễn, một chiếc tương tự có in trong Tử thạch ngưng anh (1995) tr. 102. Mặt sau nghiên có hột nổi từ số
1 đến số 9.
[7] Trong Trung Quốc bác vật biệt danh đại từ điển
(2000), (tr. 475-6).
[8] Tổng hợp từ The
Quintessential Purple Stone (Tử Thạch Ngưng Anh 紫石凝英 - 歷代端硯藝術) The Chinese University of Hongkong, The Art
Gallery, 1991, 1995 Hongkong tr. 12 và Dorothy Ko, The
Social Life of Inkstones: Artisans and Scholars in Early Qing China,
Seattle and London: University of Washington Press, 2017 tr. 2.
[9] Fine Chinese
Ceramics & Works of Art (Part I) là danh sách bảo vật đem bán đấu giá ngày
17 Sept. 2015 tại New York, tr. 78. Đây là một phần trong sưu tầm của gia đình
Khổng Tường Hi (孔祥煕). Khổng Tường Hi (1880-1867) là chồng của Tống Ái
Linh (宋藹齡) (1889-1973) là một trong ba chị em nổi tiếng của
Trung Hoa Dân quốc (hai người còn lại là Tống Khánh Linh, vợ Tôn Dật Tiên và Tống
Mỹ Linh, vợ Tưởng Giới Thạch). Khổng Tường Hi là hậu duệ của Khổng Tử, được coi
như một trong những người giàu nhất Trung Hoa thời Dân quốc.
[10] 藏硯最好用木制的印匣… 匣用漆素為上,次用紫檀為雅;漆滕于檀香,不滲水氣故也…
[11] Rosewood còn gọi là toan chi酸枝,
Dalbergia cochinchinensis.
[12] Nam Bang Văn Vật (2002), tr. 21, 37.
[13] Fang Jing Pei: Symbols and Rebuses in Chinese Art -
Figures, Bugs, Beasts, and Flowers (Berkeley/Toronto: Ten Speed Press,
2004), tr. 63.
[14] Dorothy Ko, 13.
[15] 龍尾之群, 淄韞玊之伯仲也。
[17] Hình các loại mắt, nguyên bản Guangdongsheng
zhiliang jishu jianduju (廣東省質量技術監督局) Guangdongsheng difang biaozhun: Duan yan (廣東省地方標準: 端硯) 2006 trích theo Dorothy Ko, The Social Life
of Inkstones (2017) tr. 65
[18] Bút Nghiên Giấy Mực (TPHCM: Văn hóa - Văn nghệ, 2018),
tr. 325-354.
[19] Xem Tạp chí Nghiên Cứu & Phát
Triển (Huế) số 1 (155). 2020 (tr. 122-137)