Tế Văn Hầu
濟文侯
Nguyên tác
: Nam
Thiên Trân Dị Tập
南 天 珍 異 集
Tác giả : Vô Danh
Bản dịch :
Phạm Xuân Hy
Đây
là một loại đỏan biên bút ký tiểu thuyết, được phố biến rất
rộng rãi, truyền tụng lâu đời, trong dân gian.
Câu
truyện nhắc lại cái chết oan khuất của hai người : Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn
Trãi. Là một điều có thật,và trở thành
nghi án đã xẩy ra trong lịch sử
nước ta.
Nguyễn
Thị Lộ đã bị vu cáo hóa ra « rắn » để trả thù báo oán, mang đầy tính
chất truyền kỳ và hoang đường.
Nhưng
ai là người đầu tiên đã hư cấu nên câu truyện rắn báo oán này ? Với mục
đích gì?
Phải
chăng người ta muốn tầm thường hóa vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi :
Ông
chết, là do « quái vật », tạo ra, chứ không phải do « người phàm» giết.
Tuy
thế, có người đã đưa ra giả thuyêt cho rằng truyện này viết ra nhằm ý đồ che đậy
sự tranh chấp ngôi vị đế vương, quyền hành trong nội bộ cung đình lúc đó , hoặc
những thù oán, đố kỵ, giữa các công thần đầu nhà Lê ?.
Chúng
tôi xin nhường công việc này cho các sử gia,
các học giả, và các nhà nghiên cứu.
Và
xin trở lại với cố sự « Tế Văn Hầu ».
***
Truyện
« Tế Văn Hầu » này, cũng chỉ là một hình thái khác của những
truyện « Rắn báo Oán » viêt về Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, nhưng viết
bằng Hán văn,của người Việt,trích trong tác phẩm « Nam Thiên Trân Dị Tập 南天珍異集 - Những
truyện hay lạ của nước Nam », không
đề tên tác giả. Tuy thế, căn cứ theo lời
tựa ngắn ngủi ở đầu sách này thì người đọc được biết « Nam Thiên Trân Dị Tập »
gồm có 135 đoản biên tiểu thuyêt, đề cập đến những truyện kỳ lạ liên quan những danh nhân và các thắng cảnh núi non, chùa chiền, ở nước
ta.
Khởi đầu sách Nam Thiên Trân Dị Tập căn cứ vào một
ít truyện có sẵn của sách « Công Dư Tiệp Ký » của tác giả Vũ Phương Đề,
sau được các tác giả đời sau viết tiếp
vào và có tên truyện như trên .
Bản
gốc viết bằng tay, không phải bản khắc.
Tôi
mạo muội dịch truyên Tế Văn Hầu 濟文矦, sang quốc ngữ .
Với lòng kính trọng nỗi oan khuất của Nguyễn Trãi. Sau nữa, vì lòng xót
xa , thương cảm thân phận một người phụ nữ, lại là một người phụ nữ đẹp,
có học thức, sống dưới chế độ phong kiến,
trọng nam khinh nữ, như Nguyễn Thị Lộ, bị giết một cách thảm khốc là bị nhốt vào rọ sắt rồi dìm xuống sông.
Ông
Nguyễn Trãi và bà dù đã được vua Lê Thánh Tôn ,năm 1464, bạch hoá minh oan,
và lập đền thờ ,cúng tế. Nhưng thân phận
của người phụ nữ Việt Nam, vẫn còn phải chịu nhiều nỗi tăm tối,bất hạnh,và
oan khuất .
Cái
chết của vua Lê Thái Tông vốn là do
« tật » : « cự hổ tật » 遽虎疾 của ông tự vận vào người.Như vậy, thì đâu
còn việc bà Nguyễn Thị Lộ đánh thuốc độc
giết vua Lê Thái Tông nữa.
Ta
hồ ! Thiên cổ phù vân
Hồng
nhan bạc mệnh.
Bấy giờ quân Minh
sang đánh nước ta, bắt dược cha ông, đem về giam ở điếm canh Lan Sơn Điếm 蘭山店 , ông và
các em lẽo đẽo đi theo.
Cha ông mới bảo
ông rằng :
-Cha tuổi tác già
nua, đến đây, thì để cho các em con theo cha,
còn con, một trăm năm nữa, con đem hài cốt cha về nước cải táng cũng đủ
rồi. Nay thì con hãy về nước đi, cha con thiên tượng, nước ta hai chục năm nữa,
phía tây nam ắt có bậc chân chúa hưng khởi, con nên hết lòng trung với vua, thì
cũng chẳng khác nào trả được cái nhục cho nước, phục thù được cho vua, hoàn thành được chí nguyện của
cha, đấy mới là đại hiếu, chứ lẽ nào cứ khư khư ôm chân cha mà gọi là hiếu
sao ?.
Dặn đi dặn lại hai
ba lần như thế.
Nguyễn Trãi chỉ biết
sụt sùi rơi lệ, không dám ngẩng đầu lên nhìn.
Sau đành vái lậy,
từ biệt cha trở về nước.
Một hôm, Nguyễn
Trãi đến miếu Dạ Trạch夜澤祠, để cầu
khấn thần được gặp chân chúa, thì được thần miếu đáp ứng, bèn đi theo lời chỉ dẫn
của thần, đến Lỗi Giang 磊江thì gặp được Lê Tổ 黎祖 (tức Lê Thái Tổ) huý là
Lợi 利.
Nguyễn Trãi đến
hiên môn軒門, tức cửa
quân, rồi xin vào yết kiến.
Vua Lê Thái Tổ bảo
với Nguyễn Trãi rằng :
-Đêm qua, ta nằm
ngủ mơ thấy thần nhân đến cho biết là ngày mai sẽ có bậc hiền thần lương đống đến
gặp, nay ông lại đến , y hệt những gì thấy trong mộng.
Rồi phong cho Nguyễn
Trãi là Thừa Chỉ Học Sĩ 承旨學士, để cùng vua hoạch định sách lược đánh đuổi quân Minh.
Bấy giờ vua cho xây cất nhà cao tằng lầu ở trên bờ sông Triền Giang廛江, đắp mô đất cao ở doanh Bồ Đề菩 提cho cao, ngày ngày, vua lên trên lầu, nhìn vào trong thành địch, xem xét hành vi của địch, cho phép Nguyễn Trãi thị hầu ở lầu thứ hai, lãnh việc viết văn thư, truyền đơn, văn thư, dụ chỉ qua lại, từ Đông Đô đến Tây Đô từ Nghệ An đến Thanh Hoa, viết thư tranh luận, không đánh mà hạ được thành, cũng như các việc quân sự cơ mật, như giảng hoà thông sứ, đều do Nguyễn Trãi liều mình vào trong thành nhiều lần.
Sau hơn mười năm vất
vả chiến đấu,Lê Tổ mới đuổi được người Minh trở về nước, bình định được đại loạn,
xây dựng được nghiệp lớn, mà công lao giúp đỡ tán trợ của Nguyễn Trãi thì rất
nhiều.
Bài « Bình
Ngô Đại Cáo », vào năm Mậu Thân 戊申, (sau khi vua Lê Thái Tổ
lên ngôi , mới ra lệnh cho Nguyễn Trãi soạn ), trong bản cáo văn « Bình
Ngô Đại Cáo » này Nguyễn Trãi đã viết
câu không dè dặt :
隧 使 宣 德 之 狡 童 黷 兵 無 厭
Người Minh đã nói
về bài « Bình Ngô Đại cáo » rằng :
-Người viết cáo
văn này, con cháu tất cả sẽ không được an toàn.
Sau này, vì liên hệ
đến vụ án Thị Lộ 氏路, ông bị mang hoạ, người ta cho rằng lời nói
đó linh nghiệm.
Nguyễn Trãi nhờ
công huân được vua Lê Thái Tổ phong là Quan Phục Hầu 冠服侯, ban cho quốc
tính 國姓 họ Lê (tức họ của vua Lê Thái Tổ).
Phàm, điển chương
chế độ, lễ nhạc, hình pháp, đều do ông sắp xếp định liệu.
Ông là bậc
khai quốc công thần,nên còn được đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu , bổ nhậm qua các chức :
-Nhập Nội Hành Khiển入內行遣
-
Môn Hạ Tỉnh Tả Ty,門下省左司
Tri Tây Bắc nhị lộ quân dân bạ tịch.
-
Gián nghị đại phu諫議大夫, kiêm Hàn lâm thừa chỉ học sĩ.
-
Nhập thị kinh diên tri chế cáo行侍經筵知制誥,
-Hành
Xu mật viện sự
-
Ngũ kinh bác sĩ五經博士, Kiêm Trung Thư Ngự Sử , Tri Quốc Sử
Tam Quán sự
-Và
được đề cử Côn Sơn Tư Phúc Tự,
-Tứ
Kim Ngư Đại Thượng Hộ Quân , phong Quan Phục Hầu Thượng Trụ Quốc(Sự trạng
lai lich đời ông có ghi trong Ức Trai Tập ).
Ông lấy người vợ
trước là họ Trâu 鄒, sinh ra
Phù Lại 扶賚, sau ông
lại lấy người vợ họ Trần và Nguyễn Thị Lộ, vì vụ án Nguyễn Thi Lộ, ông cùng với
các con, anh em, thân tộc, đều bị tru di tam tộc, (Lúc đó ông sáu mươi tuổi).
Duy có người thiếp
họ Trần bấy giờ đang có thai thì trốn thoát, ẩn cư ở nước Bồn Man Quốc 盆蠻國 (tức
Luang Prabang) , sinh con trai, đặt tên là Anh Vũ 鵡鸚.
Chừng Anh Vũ lớn
lên, được người mẹ họ Trần ấy kể truyện
về ông, cho biết khi ông về ở ẩn, dậy học ở trong xã, trước học xá có hai ụ đất
cao, có cây đại thụ đã lâu đời.Bên
trong, ruột cây bị rỗng không, và mục nát, ông mới bảo học trò của ông sớm đến
chặt cây đó đi, để cho học xá rộng rãi khoang quang.
Đêm hôm ấy, ông nằm
ngủ, mộng thấy có một thần nữ đến nói với ông rằng :
-Xin tướng công 相公 hãy khoan
chặt cây, chờ cho thiếp sinh nở đã, sáu bẩy ngày hãy chặt.
Sáng sớm ngày hôm
sau, khi ông còn ngủ chưa dậy, học trò của ông y theo lời ông dậy, đã hạ xong
cây đại thụ đó rồi, tìm thấy trong ruột cây có ba quả trứng, bèn dùng đao đập vỡ
một quả, còn hai quả đem về trình ông, rồi lại đập vỡ thêm một quả nữa, trông
hình dạng giống như là rắn.
Duy quả trứng còn
lại, bẩy ngày sau, quả nhiên nở thành một con rắn, càng ngày càng thấy nó lạ
lùng.
Bèn thả nó
đi .
Một đêm, ông ngồi
đọc sách, thấy có một dòng máu từ trên nóc nhà rớt xuống, làm thấm đến ba tờ giấy.
Ông buồn than thở:
-Thế này, thì nó oán
đến ba đời nhà mình đây !
Sau này, ông gặp
Thị Lộ bán chiếu ở ngoài đường, thấy tư dung đẹp đẽ, sắc sảo, bèn trào phúng
nói đùa :
-Cô nương quê quán
làng nào đấy ? Đến đây bán chiếu gon, chiếu còn hay hết ? Xuân xanh đương độ, tuổi
được bao nhiêu, có chồng chưa được mấy con ?
Người con gái
đáp :
-Nhà thiếp ở bờ Hồ
Tây đến đây bán chiếu « gon »,
việc gì ông hỏi hết hay còn, nay tuổi chừng độ trăng tròn lẻ, chồng còn chưa
có, có chi con ?
Ông đem lòng yêu
thích, mà lấy nàng làm vợ.
(Đoạn văn trên đây nguyên là bài thơ thường gọi là “Bài thơ Bán Chiếu Gon”,chữ
nôm, dịch ra hán văn-coi bài thơ chữ Nôm ở dưới)
Hơn mười năm sau, ông mới phát giác ra là ở rốn có vẩy do rắn cắn.
Kịp đến thời vua
Lê Thái Tông lên ngôi, lúc đó ông đã về
hưu ẩn dật , vua có mấy lần đến thăm
nhà, thấy Thị Lộ đẹp thì sinh lòng ưa thích, mới kín đáo xuống mật chiếu vời
nàng vào hầu.
天高地厚四時成
Khả
trách hà nhân đạo bất minh,
可责何人道不明
Kính
diện tuy thanh trần dĩ nhiệm,
镜面雖清塵已染
Đức
tâm phương nhuệ dục tuỳ tranh,
德心方銳欲谁争
Nhân
thanh tằng hiệu Chu vương đức,
聲曾效周王德
Thệ
chỉ tương đam Hán đế tình,
誓指相耽漢帝情
Hạnh
đắc thiên nhân tương bán trợ,
幸得天人相半助
Tất
nhiên xã tắc cánh xuân sinh,
必然社稷更春生
丹心懇懇事由成
Thuỳ
vị cương thường đạo bất minh,
谁謂綱常道不明
Nhật
hoả hà ưu vân thốn điểm
日火何憂雲寸點
Mộc
cù khởi phụ cát luỵ tranh ,
木樛豈負葛纍争
Anh
hùng miễn đại anh hùng chí,
英雄勉大英雄志
Nữ
tử phi nhi nữ tử tình,
女子非兒女子情
Phúc
quyến thiên duyên cầm sắt hợp
福眷天緣琴瑟合
Nghiệm
chư tôn tử thánh hiền sinh,
騐諸孫子聖賢生
Sau vua Lê Thái
Tông đến vườn Lệ Chi, Thị Lộ được vua yêu thưởng thức, rồi đột ngột băng hà崩遐.Đình thần
bí mật xét xử ông, buộc ôngvào tội tru di tam tộc. Rồi sau mới đến Thị Lộ.Thị Lộ
xin được ra sông để tắm, lập tức hoá ra một con rắn trắng, lặn xuống nước biến
đi không trở lại nữa, mới hay là ông bị « rắn báo oán ».
Đến đời vua Lê
Thánh Tông xét công tích ban ơn cho các công thần, nhiều lần xuống chiếu để xem
những di tích.
Lúc bấy giờ Anh Vũ
tuy nghe thấy, nhưng còn sợ án oan của ông chưa được rửa sạch, mới trở về nước
và cải ra họ Trần.
Vào kỳ Thu thí,
Anh Vũ đi thi Hương , trúng Giải Nguyên , nghe cách chư sinh bàn bạc đến chuyện
cũ, được biết là nhà vua xuống chiếu đi tìm nhiều lần, quả vua có lòng thương,
Anh Vũ bèn đi lên kinh, mong tìm được người quen của cha cất nhắc.
Nguyễn Trãi được
vua Lê Thánh Tôn gia phong là Đặc Tiến Kim Tố Vinh Lộc Đại Phu, tước Tế Văn Hầu
Thượng Trụ Quốc (coi chú thích), ban ruộng đất để lo việc thờ cúng.
Anh Vũ sinh ra ba
người con là Tổ Tạc, Tổ *, và Tổ Giám.
Tổ Giám làm quan đến
Thừa Chính Sứ, phụng mệnh đi sứ sang Tầu, thuyền qua biển Đông Hải, thình lình
gió bão sóng to nổi lên, Tổ Giám lấy là sứ giả
khấn vái, cầu xin thì lập tức
sóng yên biển lặng
Lúc trở về, Tổ Giám, biển lại nổi sóng như lúc đi.
Bấy giờ, Tổ Giám mới
ngửa cổ lên trời than :
-Ai ngờ con “quái
vật” này thù dai và thâm độc đến thế !
Rồi chỉnh đốn lại
mũ mãng, y phục, nhẩy xuống biển, tìm đến thuỷ cung 水宫.
CHÚ THÍCH
濟文侯
Nguyễn
Trãi 阮廌(1380-1442)
có các tước hiệu :
-
Ngày 18-3-1428, tức năm Mậu thân,vua Lê Thái Tổ phong cho Nguyễn Trãi tước Quan Phục Hầu.
Ngày
3-5- 1429 , tức năm Kỷ Dậu, Lê Thái Tổ phong cho Nguyễn Trãi là Á Hầu, trong số
93 khai quốc công thần khác..
-
Năm 1464, tức năm Giáp Thìn, vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết minh oan phong cho Nguyễn Trãi là Tán Trù Bá, rồi lại gia phong là Đặc Tiến Kim Tố Vinh Lộc Đại
Phu, tước Tế Văn Hầu Thượng Trụ Quốc, ban ruộng đất để lo việc thờ cúng.Có thuyết
nói là do vua
Lại có thuyết cho rằng tước
hiệu « Tế Văn Hầu », sau 70 năm Nguyễn Trãi bị hoạ, ngày-8 tháng 8
năm 1512 vua Lê Tương Dực mới phong tước này cho ông.
Trong
truyện này, Nguyễn Trãi 阮廌 lại
viết lầm là Nguyễn Tiến 阮薦, và sách Hoàng Việt Văn Tuyển của Bùi Huy
Bích, cũng chép là Nguyễn Tiến 阮薦, có thể là do sự sao chép nhiều lần mà lầm lẫn
giữa chữ Trãi 廌, (có nghĩa là con giải trãi (còn đọc là Trĩ), và chữ Tiến 薦 có nghĩa tiến bộ tiến thủ.
Trong
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, nguyên bản chữ Hán , viết là Nguyễn Trãi 阮廌, rất nhiều lần. Xin so sánh sự khác biệt hai chữ này dưới đây :
薦chữ Tiến, và chữ Trãi廌
Thiên Nam Trân Dị Tập là một tác phẩm văn
học gồm những đoản bút ký tiểu thuyết viết bằng Hán văn, gồm 135 truyện, đề cập
đến các nhân vật Việt Nam như Nguyễn Trãi, Nguyễn Quý Đức, Lê Cảnh Tuân, Loa Đại
Vương Truyện Ký ...
Bản gốc viêt băng tay, không đề tên tác giả.
Nhưng theo lời tựa đề ngắn ngủi của sách,
thì người ta được biết Nam Thiên Trân Dị Tập đã dựa vào sách « Công Dư Tiệp
Ký » của Vũ Phương Đề có sẵn trước, người đời sau sửa lại những chỗ lầm lẫn,
ngoa ngộ, thiếu khuyết, viết thêm vào.
Năm
1992, « Nam Thiên Trân Dị Tập » được « Pháp Quốc Viễn Đông Học
Viện » tức trường « Viễn Đông Bác cổ » cũ, cùng với « Đài
Loan Học Sinh Thư Cục » và một số học giả,chuyên gia Hán Nôm, thâu góp những
tác phẩm viết bằng hán văn của ta ngày xưa, đính chính , xuất bản, phát hành
trong tủ sách « Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tùng San », đây là một
công trình đồ sộ quý gia, in ấn kỹ càng,
được chia ra làm 5 loại tiểu thuyết, không có phần lịch sử :
-Thần
Thoại tiểu thuyết.
-Truyền
Kỳ tiểu thuyêt
-Lịch
Sử Diễn Nghĩa tiểu thuyết
-Bút
Ký tiểu thuyết
-Hiện
Đại tiểu thuyêt, sô lượng rất ít.
3-Tư
Nghiêp 司業
Tên
gọi chức quan, coi về việc giáo dục. Ở Trung Quốc từ sau triều nhà Tùy, tại Quốc
Tử Giám, tức là cơ quan tối cao về việc dạy học, đặt ra chức Tư Nghiệp, làm phó, trợ giúp việc
tế lễ, trông coi những chính sách dậy dỗ nho sinh.
Đến
cuối đời nhà Thanh chức này bị bãi bỏ.
Tức
năm 1400, niên hiệu Thánh Nguyên nguyên niên, Hồ Quý Ly xưng đế, đổi quốc hiệu
là Đại Ngu, mở khoa thi Thái Học Sinh 太學生, tức Tiến
sĩ, Nuyễn Trãi đậu khoa này, và được bổ làm Chánh Chưởng Ngự Sử Đài 正掌御史台 , là viên quan chính coi việc giám sát các cơ quan,quan lại.
Nhà Hồ mất,quân Minh bắt Hồ Qúy Ly ,Hồ Hán
Thươg về Kim Lăng, tức Nam Kinh. Nguyễn Trãi theo cha đến Aỉ Nam Quang , nghe lời
cha khuyên trở về, tìm găp Lê Lợi ; bị quân Minh bắt tạm giam ở Đông Quan (Ha Nội).
Vào
tháng 8 năm 1407, Minh thành Tổ là Chu Lệ ra lệnh đổi An Nam là Giao Chỉ, và đặt
quan cai trị, chia nước ta thành Tam Ty, ba ty, và bổ nhiệm :
-Đô
Thiêm Sự Lã Nghị làm Giao Chỉ Đô Chỉ Huy Sứ Ty
-
Hoàng Trung làm Phó Đô Ty ;
-Hoàng
Phúc làm Bố Chính Ty và Án Sát Ty
là năm, vua Lê Thái Tổ :
-Lên
ngôi xưng đế, làm vua (1428-1433)
-Đặt
niên hiệu :Thuận Thiên
-Đặt
quốc hiệu : Đại Việt
-Kiến
đô ở Đông Đô tức Thăng Long
-Ban
quốc tính cho Nguyễn Trãi là Lê Trãi,
cùng với 93 người công thần khác.
-
Ngày 15 tháng 4 năm 1428 sau khi vua lên
ngôi thì ban lệnh cho Nguyễn Trãi 阮廌 , soạn” Bình Ngô Đại Cáo” bằng Hán văn, trong đó có câu viết cứng cỏi,
không sợ hãi :
« Toại
sử Tuyên Đức chi giảo đồng độc binh vô yếm
隧 使 宣 德 之 狡 童 黷 兵 無 厭
Và được Trần Trọng Kim dịch :
Đến
nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức nhàm võ không thôi »
Theo
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì ngày 16
tháng 8 năm 1442 giết Hành Khiển 行遣 Nguyễn
Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ, bắt tội đến ba đời.
Trước
đây, Nguyễn Thi Lộ ra vào cung cấm, Thái Tông trông thấy rất ưa, liền cớt nhả với
thị. Đến đây, vua đi tuần về miền đông, đến chơi nhà Trãi, rồi bị bạo bệnh mà mất, cho nên Trãi bị tội ấy.
Ngày
9 tháng 9 năm 1442, giết bọn hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng, vì khi Nguyễn
Trãi sắp bị hành hình có nói là hối không nghe lời của Thắng và Phúc.
Chức vụ của Nguyển
Trãi là Nhập Nội Hành Khiển.Hành Khiển là chức quan có từ thời nhà Trần, cũng gọi
là Thứ Tướng , địa vị sau Thái Úy, điều hành chính quyền, phần lớn do tông thất
đảm nhậm, hay hoạn quan.Đến thời Trần Khắc Chung thì sĩ đại phu được giữ chức Hành Khiển, diên tục đến thời
Nguyễn Trãi.
Là niên hiệu của vua Minh Tuyên Tông Chu Chiêm
Cơ ,thời gian tại vị (1426-1435) ,cháu của Minh Thành Tổ là Chu Lệ,người
phái Trương Phụ đem quân đánh nhà Hồ . Tuyên Đức là vua thứ 5 triều nhà
Minh, bấy giờ, năm 1428,Tuyên Đức mới
lên ngôi được 3 năm, là năm Nguyễn Trãi viết Bình Ngô Đại Cáo.
Mặc
dầu là lời lẽ cứng cỏi trong « Bình
Ngô Đai Cáo » , nhưng vua ta
để tránh cảnh loạn ly giặc
giã,vua Lê Thái Tổ vẫn khôn khéo đem đúc « người vàng » sang cống Tầu
để cầu phong vương, dù đã xưng đế.)
Bình
Ngô Đại Cáo được coi là bản Tuyên Ngôn Độc lập, cũng như được xưng tụng là Thiên cổ hùng văn 天古雄文.
Có các
nghĩa :
1-Nguyên
là từ để xưng hô một cách kính trọng Tể Tướng.
2-Gọi
người học trò học thức là Tướng Công
-Người
vợ cũng xưng hô gọi chồng một cách kính trọng là Tướng công, hoặc gọi là quan
nhân, hoặc một cách yêu dấu thì xưng hô là « khanh »
3-Đời
Thanh gọi nam kỹ, nam xướng là Tướng Công, nên chỗ tập trung cư trú của các nam
kỹ là Tướng Công Đường.
Tiếp
thụ thánh chỉ, ý kiên, của nhà vua .
-Đời
nhà Đường trong Hàn Lâm Viện có chức quan là Học Sĩ Thừa Chỉ, địa vị ở trên các
Học Sĩ.Phàm các lệnh phế bỏ , hay bổ nhiệm,
những việc chính sự trọng yếu đều được truyền đến.
-Các
triều Tống, Nguyên tiếp tục noi theo .
-Thời
Ngũ Đại có chức Xu Mật Viện Thừa , và Phó Thừa Chỉ
-Đến
triều Minh thì chức này bị phế.
Tùy Dạng Đế vào niên hiệu Đại Nghiêp đặt ra khoa Tiến Sĩ
để tuyển lựa nhân tài đầu tiên
-Các triều Đường, Tống duyên tục
theo.
Phàm đi thi Cử nhân tại Lễ Bộ
người được hợp cách trúng tuyển thì gọi là Tiến Sĩ.
-Đường triều khoa Tiến Sĩ vầ
khoa Minh Kinh được coi là trọng yếu hơn cả.
-Các triều Nguyên, Minh, Thanh,
Tiến Sĩ sau khi Điện Thi trúng tuyển được ban xuất thân, và cũng gọi là Tiến
Sĩ,nhưng chia làm 3 Giáp :
-Đệ Nhất Giáp lấy ba người. ban
danh xưng Tiến Sĩ Cập Đệ
- Đệ Nhị Giáp và Đệ Tam Giáp
ban danh xưng Tiến Sĩ Xuất Thân và Đồng
Tiến Sĩ Xuất Thân.
(Trong truyện viết là Nguyễn Trãi
đổ Tiến Sĩ vào nãm Canh Thìn niên hiệu Thánh Nguyên nhà Hồ tức năm 1400)
- Năm Giáp Dần, niên hiệu Long
Khánh thứ 2, đời vua Trần Duệ Tôn,tức năm 1374, vua bắt đầu mở khoa Tiến Sĩ, và lấy Đào sư Tích
đỗ Trạng Nguyên, lấy Lê Hiến Phủ đỗ Bảng Nhãn.
Nguyễn Phi Khanh đậu Hoàng Giáp 黄甲, tức tiến sĩ cập đệ, vì tên ghi trên loại giấy hoàng
chỉ黄纸
(giấy vàng) nên gọi là Hoàng Giáp, ông làm chức Đại Lý Tự Khanh大理寺卿, chức quan coi về hình ngục triều nhà Hồ. Tác phẩm có Nhị Khê Tập.
Thời xưa ở Tàu cử hành hương thí vào thán
8, người đỗ thì gọi là Cử Nhân, hoặc còn gọi là Hiếu Liêm.Theo lệ nhà Thanh ba năm cử hành Hương Thí một lần
vào những năm Tý, Ngọ, Mão, dậu vào
tháng 8,nhân vì là mùa thu ; nhân thế gọi là Thu Thí.
Người đậu đầu khoa hương thí được ban là Giải Nguyên 解元
𠊛於兜些半𥵕昆
Chẳng
hay chiếu ấy hết hay còn
拯能𥵕意𣍊能群
Xuân
thu phỏng đã bao nhiêu tuổi
春秋倣㐌包饒些
Đã có chồng chưa được mấy con
㐌固𠽚𣠕特氽𡥵
碎於西湖半𥵕昆
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn
餒之翁𠳨歇能群
Xuân thu nay đã trăng tròn lẻ
春秋𠉞㐌𣎞𡃋𥛭
Chồng còn chưa có hỏi chi con
𠽚群𣠕固𠳨之𡥵
Cô nương hà hương nhân
來此賣涼蓆
Lai thử mại lương tịch
涼蓆如今何有餘
Lương tịch như kim hà hữu dư
姑娘風華正茂
Cô nương phong hoa chính mậu
芳齡幾許
Phương linh kỷ hứa
有否夫婿
Hữu phủ phu tế
幾多子息
Kỷ đa tử tức
Thị Lộ thưa :
Nô gia trú Tây Hồ bạn
來此賣涼蓆
Lai thử mại tịch lương
緣何君 問可有餘
Duyên hà quân vấn khả hữu dư
奴家今朝十五月圓早已過
Nô gia kim triêu thập hữu dư
待字閨中何来子息
Đãi tự khuê trung hà lai tử tức
Paris, ngày 19-11-2019 lúc 17 giờ15 phút