Tả Tiên Sinh
左先生
Nguyên tác : Nam Thiên Trân Dị Tập
南 天 珍 異 集
Tác giả : Khuyết Danh
Bản dịch của : Phạm
Xuân Hy
Không ghi ngày tháng và
danh tính tác giả.
« Nam Thiên Trân Dị
Tập 南
天珍 異 集 », là tác phẩm ghi chép những truyện hay, truyện
lạ,các danh nhân , các chùa chiền, thắng cảnh của nước Ta, gồm hai quyển :
-Quyển nhất có 70 truyện.
-Quyển nhị có 65, tổng cộng
là 135 truyện.
Theo như lời tựa của
sách, bản sao viết tay vào ngày 15 tháng 8 năm Đinh Tỵ,tức năm Khải Định nhị
niên, tức năm 1917, thì tác giả « Nam
Thiên Trân Dị Tập » đã căn cứ vào tác phẩm Công Dư Tiệp Ký (1775) của quan Đông Các Vũ Phương Để, tiến sĩ năm Vĩnh
Hựu, tức năm 1736 đời vua Lê Ý Tông, người làng
Mộ Trạch,nhân rỗi rảnh chép lại những điều
mình nghe thấy, trông thấy,thành một tập là « Tiệp
Ký », nhưng bấy giờ sách chưa kịp khắc in.
Về sau có những người
khác viêt tiêp vào ,có người chia ra thành loại mục, có người đặt lại tiêu đề
sách khác,bất nhất, không giống nhau ; khiến cho đời sau không biết chỗ
nào là của Vũ Phương Đề viết, chỗ nào do
hậu nhân thêm vào.
Nay tác giả không quản ngại mình thô lậu, tham duyệt các bản, sửa lại những chỗ sai lầm, thiếu sót
cho đúng
Trong sách có những điều
hay quý (Trân珍) và cũng những điều lạ kỳ (Dị異)nên
đặt tên là Trân Dị Tập 珍異集 ,là tác phẩm chí bảo của nước Nam ta vậy.
Nhưng du nhập vào nước ta từ bao
giờ, thì không ai xác định được, người ta thường tôn sùng là Tả Ao là tổ sư
về nghề phong thuỷ ở Việt Nam.
Sách vở viết về phong
thuỷ ,cũng như truyền khẩu về Tả Ao, đựơc quảng bá, phổ biến rộng rãi
trong dân gian.
Tuy nhiên, các sách vở,
cũng như các giai thoại, đều có chỗ khác
biệt, bất nhất, không giống nhau, ngay như tên gọi của Tả Ao cũng không được
xác định rõ ràng..
Tả Ao,theo tác phẩm
Thiên Nam Trân Dị Tập 南天珍異集 cho biết Tả Ao có tên là Nguyễn
Đức Huyền 阮德玄
-Ngoài ra, hai tác giả
Phạm Đình Hổ (1768 - 1839 ), và Nguyễn Án, trong tác phẩm nổi tiếng
Tang Thương Ngẫu Lục 桑滄偶錄 cũng
có có
truyện“Tả Ao Tiên Sinh », và đưa giả thuyết cho là Tả Ao là người họ
Hoàng 黄 tên là Chỉ 止.và những chi tiết khác biệt.
-Sách « Thính Văn Dị
Lục 聴文異錄»
của một tác giả khuyết danh khác, cũng có một bút ký về Tả Ao đề là « Nguyễn Tả Ao Ký 阮左泑記» , nhưng nội
dung hoàn toàn tương đồng với truyện “Tả Tiên Sinh” trên đây, có khả năng
là“sao y bản chính”của truyện « Tả Tiên Sinh » trong Nam Thiên Thiên
Trân Dị Tập chăng ?Vả, còn rất nhiều tác phẩm, bài viêt khác, bàn về phong
thuỷ nữa , nhắc đến ông. và viết về ông.
Tôi từng nghe cụ
Nguyễn Hiến Lê có ý kiến rằng :Dịch là một việc làm rất bạc bẽo vì công
việc đã khó khăn mà lại ít người thưởng thức.Riêng ở nưốc ta,nó lại càng bạc
bẽo vì rất hiếm người chịu đọc sách dịch.
Làm công việc này, tôi
là một lão nhà quê, có được chút ít chữ hán nôm tự học thô thiển, đem thóc ra phơi cho khỏi hủ mốc, ôn lại cho khỏi bị thất thoát,và cũng mong giúp cho mình được khuây khoả , những
khi chiều tà nắng tắt, chống gậy bước qua tuổi bát thập.
Học thêm được chữ nào vui chữ đó.
Vì thật tình trong lòng chúng tôi vẫn thường tự thẹn với sở học nông cạn
non nớt của mình, mà biển học thì mênh mông vô hạn, tuổi già lại đa bệnh, không
thể tránh khỏi những sai sót, bất cập.
Việc làm chú thích chỉ là mua vui
Rất mong được các vị cao minh lượng thứ chỉ giáo và phủ chính cho.
Xin chân thành đa tạ..
BẢN DỊCH CỦA PHẠM
XUÂN HY.
Nguyễn Đức Huyền (阮德玄) ,
người xã Tả Ao (寫泑社), huyện Nghi
Xuân, lúc còn trẻ thiếu niên, nhà nghèo, phải đi làm thuê làm mướn để sống, thường đi qua sông
Phù Thạch Giang, thấy có một người Bắc khách 北客, đang sắp bị chết đuối, ông nhẩy xuống vớt lên, cứu sống, người khách lấy
ra một trăm mân 緡để tặng , nhưng ông không nhận. Người ấy lại cố ép nhận
phân nửa, nhưng ông cũng từ chối, không nhận.
Người Tầu khen ông là người có lòng hảo tâm, mới nói với ông rằng :
-Trông tướng mạo của cậu, thật là tiên phong đạo cốt, có muốn theo lão về Tầu , học môn địa lý chính
tông không.
Ông lập tức đi theo người thầy địa lý ấy về Quảng Đông.
Người thầy địa lý thấy ông còn trẻ, không biết chữ; nên thường lấy
gạo tụ lại thành đống, lập thành hình sơn thủy long hổ hình 山水龍虎形, tức
các hình thế đất về phong thủy,và ông dùng khẩu truyền , mà chỉ dạy cho Tả
Ao. Ông vốn thông minh dĩnh ngộ, nên ba
năm sau, quả nhiên, ông tinh thông giỏi về phong thủy.
Ông có ý muốn xin trở về nước.
Thày địa lý mới lấy cát bố trí một trăm cái huyệt, ở bên dưới,
kín đáo chôn dấu một trăm đồng tiển ở dưới, bảo ông thử « điểm huyệt點穴 ».
Ông điểm trúng 99 huyệt, chỉ sai có một huyệt.
Thầy địa lý bèn than :
-Thế này, nghề của ta di chuyển sang nước Nam mất !
Sau đó, Tả Ao bái tạ thầy rồi trở về nước.
Thầy địa lý lại ban thêm cho ông một cái địa bàn“tróc
long 捉龙”
để tìm kiếm long mạch, và bùa để trấn yểm thổ địa thần, cùng các đồ nghề
khác, lại nói :
-Thuật địa lý này, nước Nam không có, nên giữ kín, đừng tiết lậu
nhá !
Lại căn dặn :
-Ở huyện Chân
Phúc (Nay là huyện Gia Lộc) ở Nghĩa
An (Nghệ An) có một ngôi huyệt rất tốt, nhưng chớ có tham huyệt đó, kẻo lại luỵ
đến ta.
Ông trở về nhà, ý muốn cải táng mộ phần của ông nội,
nhưng các anh em đều không chịu.
Khi ông đến xã Bút Sơn, huyện Hoằng Hoá, thấy có một
cái huyệt nếu táng vảo giờ dần寅 thì sẽ phát tích vào giờ mão卯, ông tự bảo :
“ mình không đem tài ra thi thố, thì lấy gì làm cho người ta tin tưởng”
Rồi ông rao lên rằng
:
-Ai mả cải táng phát tài thì phải chia cho tôi một phần
mười.
Có một người đồng ý
nhận lời, vào lúc lê minh 黎明 khi công việc cải táng xong, người ấy cầm quốc
ra sông rửa, thấy một người sắp bị chết đuối, người ấy vớt lên để
chôn, thì thấy trong người có hai túi đựng 50 nén bạc, mặt trời mới mọc, người ấy
chia cho Tả Ao 5 nén như lời đã giao ước.
Ông đến huyện Thanh Liêm tìm được một cái huyệt, ông bảo
người ta rằng :
-Táng vào huyệt này,chỉ một tháng sau được phong quận
công , những phải thưởng cho tôi một 100
chuỗi tiền cổ.
Có người phú ông nghe nói thế, lấy làm ngạc nhiên, bèn
mời Tả Ao đến nhà.
Lúc đó triều đình đang đánh nhau tướng nhà Mạc là Mạc
Kính Độ ở Kim Bảng
Mạc Kính Độ bị thua trận bỏ trốn, triều đình xuống lệnh
tróc nã, ai bắt được Mạc Kính Độ thì được phong tước Quận Công ngay lập tức.
Người phú ông sau hai chục ngày cải táng, thì có hai
người lạ vào nhà, nói phú ông :
-Tôi đây là Mạc Kinh Độ, xin ông cho tôi ăn một bữa,
tôi sẽ mang ơn, và ông cứ bắt tôi nộp triều đình.
Nhờ thế, phú ông được phong làm quận công, khi có sắc
chỉ đến nhà thì vữa một tháng đúng.
Phú ông tặng thưởng cho Tả Ao một trăm xâu tiền như đã
ước hẹn.Nhưng Tả Ao chỉ nhận có ba xâu để làm tiền đi đường mà thôi.
Từ dấy, tiếng tăm của Tả Ao vang lừng thiên hạ.
Ông đi chu du tứ trấn đến 20 năm.
Như các vùng Nhân Hữu, Bảo Triện thuộc huyện Gia Bình,
An Quyết thuộc huyện Từ Liêm, Ông Mặc, Hà lỗ, thuộc huyện Đông Ngàn, Đào Xá thuộc
huyện Lang Tài, Lý Hải thuộc huyện An lạc, Đại trạch thuộc huyện Siêu Loại,
Kiêu Kỵ thuộc Gia Lâm, Kim Tuyền thuộc huyện An Lãng, là những nơi có có người
nhờ ông để huyệt phát tích.Lớn thì làm đến Thượng Thư, Tiến Sĩ, Phò Mã, Cung
Phi, Cự Phú, tính không xuể.
Chừng khi ông đến xã Thiên Lão thấy có một huyệt rất
quý, lòng có ý mốn táng người họ Trần ở huyệt này, như khi mới vừa dùng địa bàn
để tìm long mạch, ba lần đều phải làm lại, ông mới niệm phù chú để gọi thổ thần
lên hỏi, thì thổ thần bảo với ông rằng:
-Ngôi huyệt này sẽ ba đời làm Sư Quốc Đại Vương, con cháu sẽ hưởng
tước vị công, hầu không dứt, trời đã ban cho nhà Nguyễn Quý Đức, còn nhà họ Trần
đức mỏng, không xứng đáng được hưởng ngôi huyệt này, còn nếu ngài vi phạm thiên
ý, tất hại vào thân. Ngài chu du thiên hạ, tạo phúc cho nhiều người, mà một tấc
cát địa để chôn cha mẹ thì lại không có, ngài nên suy nghĩ kỹ .
Tả Ao vì thế trở về làng cũ.
Thuật phong thuỷ
nước Nam ta, không có ai tinh thông bằng Tả Ao, ông là người tạo giầu
sang phú quý cho nhiều người, mà không thể cứu được con cháu khỏi sự nghèo túng
khốn khó, vậy th, con người ta ở đời, nên lấy việc tu đức làm gốc, nhược bằng
chỉ chuyên trông nhờ phong thuỷ, tất sẽ cùng mạt.
Sự tích về Tả Ao chép trong sách “ Tang Thương Lục”
cùng những sách khác có chỗ không giống nhau.
Lại có thuyết nói rằng, ngôi mộ phụ thân của Tả Ao được
táng vào hàm rồng trên núi cao, được mấy
tháng, thì bị sứ giả Tầu cùng với thầy địa lý chính tông sang dùng phép phá huỷ
đi.
Có thuyết thì nói rằng mẹ Tả Ao huyệt táng ở đáy biển, miệng rồng ba trăm
năm chỉ há ra trong một khắc, khi đó thì
có gió bão nổi lên đùng đùng, chừng lúc gió bão yên tĩnh thì trễ, không kịp
táng nữa.
Rồi lại có thuyết nói rằng Tả Ao chuẩn bị sau khi chết,
muốn thân được táng vào huyệt trở thành địa tiên, tiên ở cõi trần gian 地仙, nhưng đi giữa đường ông bị bệnh nặng,
nên dặn con cháu táng vào huyệt phát tích làm Thành hoàng
先 生
Tiên sinh có nghĩa là người sinh
ra trước.Rồi biến thiên với nhiều nghĩa khác nhau:
-Từ thời Chiến Quốc đến các triều Thanh, Minh, phạm vi xử dụng và ý nghĩa
của hai chữ Tiên Sinh theo biến thiên từng thời một.
1-Thời Chiến Quốc, hai chữ Tiên Sinh được sử dụng để xưng hô bậc trưởng bối
có đạo hạnh cao, và ngày nay gọi là nguời
thầy dạy học (Tiên Sinh, lão nhân giáo học giả 先生老人教學 者-tiên sinh là bậc lão nhân dậy học)
2-Đời Hán, người ta thêm chữ “lão“ ở đằng trước, và xưng hô là Lão Tiên
Sinh.
3-Đến thời Thanh sơ, người ta xưng hô với Tướng Quốc là Lão Tiên
Sinh.Sang đến đời Càn Long, ít thấy dùng Lão Tiên Sinh.
4-Thời Cách Mạnh Tân Hợi, trong giao tế hàng ngày, ghi gặp nhau đều gọi
nhau là Lão Tiên Sinh cả.
5-Tại Hương Cảng và Aó Môn, người vợ cũng có khi gọi chồng là Tiên Sinh,
và còn gọi chồng người khác cũng là Tiên sinh.
6-Thầy lang, hay bác sĩ, cũng được gọi là Tiên Sinh.
7-Đạo Sĩ, Thầy bói, thầy địa lý, hay Phong Thuỷ Tiên Sinh, ngay cả kỹ nữ
cũng được gọi là Tiên Sinh. Trong Sử Ký cua Tư Mã Thiên. Hàn Tín hỏi Khoái
Thông “Tiên Sinh tướng nhân như hà ?“
北客
Tiếng Việt có nhiều từ ngữ, dùng để chỉ người Trung Hoa, trong đó có từ “bắc
khách”, người khách phương bắc, vì nuớc Tầu ở phía bắc nước ta, nên gọi một
cách như vậy.Và “bắc khách” thường được
dùng trong văn viết, sách vở một cách nhã nhặn.
Về phần người nước ngoài, thì tùy theo sự biến thiên của lịch sử, người
ngọai quốc mỗi nước có những cách gọi
khác nhau, để gọi nước Trung Quốc:
-Sau khi Tần Thủy Hòang tiêu diệt lục quốc, nước Tầu trở thành một cường
quốc, hùng mạnh về văn trị và võ công, ảnh hưởng rất lớn so với ngoại quốc.
1-Các nước Tây Vực gọi nước Trung Quốc là nước “Tần秦”, gọi các
hòa thượng của Trung Quốc là “Tần điạ
chúng tăng -秦地众僧- tăng nhân nước Tần ».
2-Đến các đời Hán, Đường, thì về
kinh tế, và văn hóa, phát đạt phồn vinh chưa bao giờ thấy, và người ngọai quốc
gọi nước TQ là người “Hán漢”, và gọi những người làm công việc
nghiên cứu về Trung Quốc là “Hán Học gia”.
3-Những người TQ lữ cư ở nước Mỹ
được người Mỹ gọi là “Đường nhân唐人” và phố, nơi người Tầu tụ cư
là “Đường Nhân Nhai”, tức phố Tầu, tại sao người Mỹ lại gọi người Tầu là Đường,
vì nước Mỹ lập quốc sau nhà Đưòng rất xa, còn người Việt thì gọi là “Phố
khách”, “Phố tầu”.Hoặc giả, chính những người Tầu tự mệnh danh cho mình là người
Đường. Tương tự như người Sài Gòn sang sống ở Mỹ người đặt tên nơi có người Việt
nam tụ cư là “Sài Gòn Nhỏ”.
4-Người Thái Lan cũng gọi người
Tầu là “Đường nhân”.
5-Cổ xưa, các nước Ấn Độ, Hy Lạp,
La Mã, và nước Nhật Bản gọi người Tầu là “Chi Na 支那”.
Theo kinh nhà Phật giải thích
thì “Chi Na” dịch âm từ chữ Phạn và có nghĩa là người “ có tài suy nghĩ”, “giỏi
về sáng tạo”.
6-Các nước Ý, Anh, và Iran, Ba
Tư cũng gọi người Tầu là “Tần” hay”Chi
na”, do sự chuyển hóa của cách phát âm.
7-Cũng có một vài nước gọi người
Tầu là “Chấn Đán 震旦” , nghĩa là “vùng đất mặt trời mọc”.Chấn là tên một quẻ trong bát quái.
8-Người Nga gọi người Tầu là
“Khả Đạt Y” là do dịch âm từ chữ “Khiết Đan 契 丹”, nhưng thật ra “Khiết Đan” chỉ là tên một bộ tộc mà thôi.
Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam vẫn
chưa xác định được ý nghĩa đúng của chữ “Tầu 艚”,là một âm nôm, được cấu tạo do “hai chữ 舟+曹 châu và tào”, chi “tầu bè” .
-“Trung Quốc” chỉ được coi là quốc hiệu xuất
hiện sau cuộc “Cách Mạng Tân Hợi”, khi “Trung Hoa Dân Quốc”thành lập.Nhưng theo văn
hiến cổ xưa thì từ ngữ “trung quốc” có nhiều nghĩa.Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc
đến các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh, phần nhiều từ ngữ “trung quốc” đưộc
dùng để phiếm chỉ vùng đất ở trung nguyên.
Tôi mạo muội trình bầy với sự
dè dặt
緡
-Thời xưa người ta dùng giây để xuyên tiền thành từng xâu một, nên mỗi một
xâu tiền được gọi là một Mân 緡;
Đọc những sách cổ, chúng
ta thường gặp giờ giấc, ghi theo âm lịch, nên lẫn lộn khó nhớ.
Cổ xưa lịch pháp của người
Trung Hoa chia « một ngày một đêm » làm 12 Thời Thần 時辰, và dùng 12 Địa Chi, « thập nhị địa chi 十二地支, thường gọi « 12 con
giáp » để gọi tên, và 12 Thời Thần này là :
-Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn,
Tý, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi ...
Xin liệt kê như dưới đây :
Còn gọi là Bán Dạ, Tý Dạ, Trung Dạ.
Tương đương giờ hiện đại
từ 23 giờ đến 1 giờ
Còn gọi là Kê Minh, Hoang Kê.
Tương đương giờ hiện đại
từ 1 giờ đến 3 giờ
(Cón gọi là Bình Đán, Lê Minh, Tảo Thần, Nhật Đán,
đó là lúc đêm và ngày giao tiếp nhau.)
Tương đương giờ hiện đại
là từ 3 giờ đến 5 giờ.
Còn gọi là Nhật Xuất, Nhật Thủy, Phá Hiểu, Húc Nhật.
Tương đương giờ hiện đại
từ 5 giờ đến 7 giờ là lúc mặt trời mới hé mọc.
Còn gọi là Thực Thời食时, Tảo Thực早食, cổ nhân cơm ăn sáng gọi là Triêu Thực. Tương
đương giờ hiện đại từ 7 giờ đến 9giờ
Còn gọi là Ngung Trung, Ngu Trung, lúc thời gian gần
sắp đến Trung Ngọ gọi là Ngung Trung.
Tương đương giờ hiện đại
từ 9 giờ đến 11 giờ
Còn gọi là Nhật Trung,Nhật Chính, Trung Ngọ.
Tương đương giờ hiện đại
từ 11 giờ đến 13 giờ.
Còn gọi là Nhật Điệt, Nhật Ương, lúc mặt trời lệch
về phía tây gọi là Nhật Điệt. Tương đương giờ hiện đại từ 13 giờ đến 15giờ.
Còn gọi là Bộ Thởi, Nhật Phố, Tịch Thực,
Tương đương giờ hiện đại
từ 15 giờ đến 17 giờ.
Còn gọi là Nhật Nhập,Nhật Lạc, Nhật Trầm, Bàng Vãng,
tức là lúc mặt trời khuất núi. Tương đương giờ hiện đại từ 17 giờ đến 19 giờ
Còn gọi là Hoàng Hôn, Nhật Tịch, Nhật Mộ, Nhật Vãn,
là lúc mặt trời đã chìm phía sau núi, trời sắp đen hắc nhưng chưa tối, vạn vật
mông lung mơ hồ không rõ.Nên gọi là Hoàng hôn.
Tương đương giờ hiện đại
từ 19 giờ đến 21 giờ
Còn gọi là Nhân Định, Định Hôn, lúc này đêm đã
khuya, người ta đình chỉ hoạt động, yên tĩnh ngủ yên.
Tương đương giờ hiện đại
từ 21 giờ đến 23 giờ
阮德 玄
Là danh xưng Tả Ao 左幼 Tả Ao không phải là tên thật của ông, mà
là tên làng quê của ông, được ông lấy làm tên hiệu và gắn với tác phẩm của
mình. Cũng tương truyền, tên ông được người xưa lấy tên làng, nơi ông sinh ra
để gọi, mà không gọi tên thật. Tên thật của ông thì không rõ ràng.
Tự Điển Bách khoa toàn
thư Việt Nam viết
rằng, xin trích:
Tả Ao, trong sách Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú, có tên là Hoàng Chiêm hay Hoàng Chỉ.
-Còn trong dân gian,
xuất phát từ quê hương ông, lưu truyền tên gọi thật cuả ông là Vũ Đức Huyền. Lại có nguồn nói rằng
ông có tên là Nguyễn Đức Huyền.
Tả Ao sinh vào khoảng
năm Nhâm Tuất (1442), sống ước chừng vào thời Lê sơ (Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông và Lê Uy Mục, tức là khoảng những năm 1442-1509. Có tài liệu cho rằng
Tả Ao sinh sống trong khoảng đời vua Lê Hy Tông (1676-1704). Ngoài ra, có các sách Địa lý phong thủy Tả Ao và Địa lý Tả Ao chính tông của tác giả
Vương Thị Nhị Mười; Nghiên cứu Phong
thủy và Phong thủy Việt Nam của Ngô Nguyên Phi... đều nói sơ lược về lai
lịch Tả Ao. Các sử gia thời Lê Nguyễn đều không chép về ông nên cuộc đời ông
chỉ được chép tản mát trong một số truyện, sách đại lý phong thủy thời nhà Nguyễn và sau này. Sách Hán Nôm được cho
là do Tả Ao truyền lại gồm: Tả Ao chân truyền di thư (左 幼 真 傳 遺 書), Tả Ao chân truyền tập (左 幼 真 傳 集), Tả Ao chân truyền địa lý (5 tập-左 幼 真 傳 地 理), Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng (左 幼 先 生 祕 傳 家 寶 珍 藏), Tả Ao tiên sinh địa lý (左 幼 先 生 地 理), Tả Ao xã tiên sư thư truyền bí mật các lục (左 幼 社 先 師 書 傳 祕 宓各 局). Các tác phẩm này hiện lưu trữ ở Viện Nghiên cứu
Hán Nôm. Tuy
nhiên Viện Hán Nôm cũng chú thích rằng: Tả Ao là tên hiệu của Hoàng Chiêm.( theo từ điển Wikipedia )
阮貴德
Sinh năm 1648 mất năm
1720, ông là người làng Thiên Mễ, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông, ông từng được Tả
Thị Lang Bộ Lễ rồi thăng làm Bồi Tụng
trong phủ chua Trịnh.Và từng với Lê Hy tu đính bộ sử cũ bổ sung bộ Đại Việt sử
Ký Toàn Thư.
Trong « Nam Thiên Trân Dị
Tập » có riêng truyện viêt về Nguyễn Quý Đức.