Tưởng nhớ Lễ Nghi Học Sĩ Nguyễn Thị Lộ, bị hành quyết ngày 19/09/1442 bởi triều Lê trong bản án oan khuất Lệ Chi Viên.
Cảm ơn Nhà Giáo Hoàng Đạo Chúc, Hà Nội,
đã gửi cho tôi Kỷ Yếu Hội Thảo Khoa Học Về Lễ Nghi Học Sĩ Nguyễn Thị Lộ, tổ chức
vào ngày 19.12.2002 tại Khuyến Lương, và sách Lễ Nghi Học Sĩ Nguyễn Thị Lộ Với
Thảm Án Lệ Chi Viên, Hoàng Đạo Chúc, NXB Văn Hóa Thông Tin Hà Nội 2004.
Học sĩ cung vàng hương phấn dậy
Lệ Chi vườn cũ gió mưa dồn
Xe loan một tới ngàn thu hận
Quốc sử âm thầm với nước non
(Nữ sĩ Ngân Giang)
Một danh nhân mà cuộc
đời đã gắn bó với một bậc nữ lưu tài sắc, Lễ Nghi Học Sĩ Nguyễn Thị Lộ. Cả hai
đã bị bức tử trong bản án tru di tam tộc, ngày 19.09.1442, một áng mây ảm đạm
bay hoài trên bầu trời lịch sử Việt Nam, treo lửng nỗi oan khuất về thanh danh
của Nguyễn Thị Lộ, đã gần 600 năm qua...
Từ năm 2002 đến nay, ở Việt Nam, một số nhà sử học,
văn thi sĩ, cùng hậu duệ may mắn sót lại của hai bậc tiền nhân này đã tổ chức
những cuộc hội thảo về Nguyễn Thị Lộ, và đã gặt hái được kết quả đầu tiên là miếu
thờ kỷ niệm bà được xây dựng lại tại thôn Khuyến Lương (xã Cổ Mai xưa), huyện
Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, nơi duy nhất có miếu thờ riêng bà ở Hà Nội. Miếu
này được xây lên từ nền nhà của Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ lúc sinh tiền ở và
dạy học. Mà cả một thời gian rất dài bị bỏ hoang, tệ bạc đến nỗi biến nó thành
một nơi giữ dê, ôi!?
Theo GS Vũ Khiêu, “... chúng ta không khỏi ngậm ngùi thấy rằng trên toàn cõi Việt Nam chỉ
còn một ngôi đền tàn tạ này là riêng dành cho việc thờ cúng Bà. Phải chăng nỗi
oan ức làm tối đen cả trời đất cách đây gần 600 năm, vẫn chưa được xóa sạch đối
với con người trong sáng này...” (Tham
luận Nỗi Oan Nguyễn Thị Lộ, hội thảo NTL 19.12.2002, Khuyến Lương)
Một bài viết của tác giả Đinh Công Vỹ và Hoàng Đạo
Chúc năm 2002 ở báo Người Cao Tuổi, VN, số 218 ngày 02.09.2002, có chi tiết làm
tôi rất xúc động, xin ghi lại:
Nghĩ đến xứ người, những kỷ vật của các nạn nhân trong thủy nạn Titanic được quan tâm cất giữ cho đời nhỏ lệ thương cảm, trong khi di vật của một con người mà sắc và tài cùng sự đóng góp cho nước nhà như thế lại không được trân trọng, ơi là cao xanh, giờ ở đâu, trâm cài và... hương tóc?
Thiết tưởng ngày nay phải viết lại một cách trung
thực án Lệ Chi, đưa bà vào vị trí xứng đáng cùng tội ác bọn thủ phạm ra trước lịch
sử. Đó là nhiệm vụ của các nhà viết quốc sử, văn học. Để hình ảnh một cây trâm
thôi cô liêu trong cũi tù... Nó là một kỷ vật của quốc gia. Nhà văn Hoàng Quốc
Hải nói rằng,
Tôi thích nhất bài này trong số các bài tham luận của hội thảo. Xin chia sẻ sự đồng ý của tôi đến nhà văn.
Nên, tôi thu thập ít tài liệu có trong tay để tổng
hợp vào bài viết này, cũng với chủ ý trên, để giúp ai có quan tâm về Nguyễn Thị
Lộ, chia sẻ với tôi một hạt nước mắt, rơi trên mặt hồ sáng trong của tâm hồn một
phụ nữ tài hoa.
Bà người làng Hải Hồ (tục gọi làng Hới) nổi tiếng với
nghề làm chiếu, xã Hải Triều, huyện Ngự Thiên, nay là xã Tân Lễ, tỉnh Thái
Bình. Xuất thân từ gia đình Nho giáo, cha là Nguyễn Mỗ, là nhà nho dạy học, vì
thế, bà đã được học chữ từ bé, sau lại thêm cả y, dược, lý số. Cha mất sớm, cô
Lộ phải chuyển đến nhà cậu ở phường Tây Hồ và dệt chiếu đem vào thành Thăng
Long bán. (Theo Tham luận của Như
Hiên, Hội Thảo Nguyễn Thị Lộ, Khuyến Lương, 2002)
Vào thời Nhuận Hồ, Nguyễn Trãi, lúc này đang cùng
Trần Nguyên Hãn tìm đường khởi nghĩa chống giặc Minh. Theo gia phả họ Nguyễn,
con cháu của người vợ thứ Nguyễn Phi Khanh, ở Thanh Hóa, bản của ông Nguyễn
Quang Thự 1868, Tự Đức thứ 21, có nói rõ Nguyễn Thị Lộ sinh năm 1396, gặp Nguyễn
Trãi vào thời nhà Hồ, và về làm thiếp ông vào năm 1410. Ông 30 tuổi và bà 14 tuổi
(nếu căn cứ từ giai thọai bài thơ chữ nôm về cuộc gặp gỡ của ông bà “xuân xanh
vừa độ trăng tròn lẻ” thì lúc đó bà khoảng 14 hay 16).
Từ đó, cuộc sống ông bà gắn liền với đất Khuyến
Lương, là một mảnh đất thuộc thái ấp xưa của Thượng Tướng Trần Khắc Chân, bên bờ
sông Hồng, cách Hà Nội bây giờ khoảng 10 km. Khuyến Lương với nghĩa “khuyến
khích làm việc lương thiện” là tên của Nguyễn Trãi đặt cho làng Mui (tên xưa)
khi ông đến đây dạy chữ, dạy đức, ông bà đã sống trong cảnh “Góc thành nam, lều
một gian” là ở đây, và thai nghén Bình Ngô Sách. (Theo Khánh Thiện - Tạp chí
Quê Hương số 301 ngày 3.1.2003)
Năm 1420, ông bà dâng Bình Ngô Sách, phò Lê Lợi chống
giặc Minh. Năm 1427, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô Đại Cáo, một thiên cổ hùng văn,
thay lời Lê Lợi tuyên cáo chấm dứt cuộc kháng chiến chống Minh, được coi như Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập thứ hai của Việt Nam, sau bài thơ Thần, Nam Quốc Sơn Hà - được
coi như Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của VN mà Lý Thường Kiệt đã dùng để đuổi
ngoại xâm (lichsuvietnam.net)
Năm 1433, Lê Thái Tông (sinh 1423) lên ngôi vua, chỉ
mới 10 tuổi, quyền bính tập trung vào tay Lê Sát, Lê Ngân và bọn hoạn quan, Nguyễn
Trãi đã có lần dâng sớ phê phán nạn hoạn quan này. Đây là sợi dây oán thù đầu
tiên buộc vào số phận của ông bà cái án tru di.
Năm 1437, vua Lê Thái Tông, 15 tuổi, thân chính, bà
được triệu vào cung làm Học Sĩ, được xem là phụ nữ đầu tiên làm chức này, một
chức quan xếp hàng thứ hai, sau Đông Các Đại Học Sĩ trong Viện Hàn Lâm xưa, dạy
công chúa và cung nhân, và nhạc công về nghi thức tế tự, đánh trống hòa nhạc
trong dịp lễ tết hội hè, giúp Vua Thái Tông trong việc nhuận sắc các chiếu thư. (Theo Tham luận của TS Đinh Công Vỹ,
2002)
Dưới triều Lê Thái Tông, xảy ra việc Thần Phi Nguyễn
Thị Anh vu cáo Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Dao, khiến vua đã xử tội voi dày Tiệp Dư
cùng với bào thai trong bụng (là vua Lê Thánh Tông sau này) nhưng nhờ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Thị Lộ can gián nên thoát chết và đưa Tiệp Dư ra náu ở chùa Huy Văn. Đây
là việc thứ hai, thắt chặt thêm sợi dây thù hận với Thần Phi và đồng bọn. Và
cũng là điểm then chốt để sử gia Trần Huy Liệu trong cuốn sách Nguyễn Trãi,
1969, cho rằng chính bọn họ là thủ phạm vụ án Lệ Chi Viên.
Vào năm 1438 - 1439 Nguyễn Trãi lui về ẩn ở Côn Sơn.
Năm Nhâm Tuất, tháng 03.1442, Vua vời ông về triều đình để chấm thi Hội, lúc trở
lại Côn Sơn, bà Nguyễn Thị Lộ đã về theo chồng.
Tháng 07.1442 Lê Thái Tông đi tuần Chí Linh, gần Côn
Sơn, nên đã ghé vào nhà của ông bà. Ngày 04.08 (âm lịch) vua hồi cung, phái Nguyễn
Thị Lộ theo hầu với tư cách Lễ Nghi Học Sĩ. Đến Gia Định, trú tại vườn Lệ Chi.
(Tổng hợp tài liệu)
Theo chính sử triều Lê, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư do
Ngô Sĩ Liên biên soạn, đã ghi sự kiện như sau: “Tháng 08, ngày mồng 04 (năm
Nhâm Tuất, tức năm 1442 Dương Lịch) ... Khi đi tuần miền Đông, về đến vườn Lệ
Chi, xã Đại Lại trên sông Thiên Đức, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ, rồi
băng. Các quan bí mật đưa về... Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua...
Ngày 16 (tức ngày 19.09.1442) giết Hành Khiển Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ,
giết đến ba đời.”
Lúc việc xảy ra, Nguyễn Trãi đang ở ẩn ở Côn Sơn,
ông 62 tuổi. Vua Lê Thái Tông 19 tuổi, bà vào khoảng 47, 48.
Nguyễn Thị Anh đã phê chuẩn bản án tru di tam tộc với
tội: “Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ đầu độc nhà vua.”
Chỉ 12 ngày sau vua băng, mà án đã tuyên và thi
hành.
Thử đọc lại những dòng sử ghi một cách úp mở của sử gia Ngô Sĩ Liên, có phải đó là lời khiến ai cũng phải hiểu rằng bà bị kết tội dùng nữ sắc hại vua? Rồi bằng một kết luận hết sức mơ hồ, hồ đồ “mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua!” Không những bị bôi nhọ phẩm cách, bọn chủ mưu sau đó còn khoác cho bà một thứ “lốt rắn” bằng chuyện rắn báo oán, đánh vào lòng mê tín của dân chúng mà quên đi sự chống đối một bản án giết hại khai quốc công thần. Một bản án che mờ trời đất Đại Việt, mãi không quang để mặt trời sáng tỏ lên cái chết của hai người, nhất là cho Lễ Nghi Học Sĩ.
Người đâu tìm đâu để nói
Khấu đầu tứa máu nỗi đau
Thương nỗi độc hành lẳng lặng... (NTKM)
Người đời sau đã làm những gì để minh oan cho Người?
Cho đến nay vấn đề minh oan cho Nguyễn Trãi đã được
ưu tiên hơn và Người đã có vị trí xứng đáng trong lịch sử và văn học, thì vấn đề
Nguyễn Thị Lộ vẫn chưa thỏa đáng. Tôi xin trích ra đây những ý kiến của các học
giả, sử gia, nhà văn nhà giáo trong Kỷ Yếu Hội Thảo Khoa Học Về Lễ Nghi Học Sĩ
Nguyễn Thị Lộ, tổ chức vào ngày 19.12.2002 tại Khuyến Lương - được in lại trong
sách Lễ Nghi Học Sĩ Nguyễn Thị Lộ Với Thảm Án Lệ Chi Viên của nhà giáo Hoàng Đạo
Chúc, NXB Văn Hóa Thông Tin Hà Nội 2004.
Đọc từ sách trên, theo tôi, tiếng trống đầu tiên
đánh lên kêu oan cho Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ là của Ngô Thị Chi Lan, bút
danh Kim Hoa nữ sĩ (cháu gái Thượng Tướng Ngô Từ). Theo GS Trần Bá Chí, Bút Ký
Về Nguyễn Thị Lộ, 2002, Ngô Thị Chi Lan là học trò yêu và là con gái nuôi của vợ
chồng Nguyễn Trãi, khi xảy ra tai họa, được họ Phù ở đất Kim Hoa che chở. Bà nổi
danh tài sắc, được triệu vào tòa Kinh Diên năm 1461 để soạn thơ văn. Một lần,
khi đi thăm núi Vệ Linh bà có làm bài thơ tưởng nhớ bố mẹ nuôi:
Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn
Vạn thử thiên hồng diễm thế gian
Thiết mã tại thiên, danh tại sử
Anh uy lẫm lẫm mãn
giang san
Trúc Khê dịch:
Vệ Linh mây trắng tỏa cây xuân
Hồng tía muôn hoa đẹp cảnh trần
Oai thanh còn dậy khắp xa gần
Bài thơ được vua Lê Thánh Tông chú ý, nhất là hỏi lại
ý bạch vân nhàn. Từ bài thơ này, nữ sĩ Ngô Thị Chi Lan đã kêu oan cho bố
mẹ nuôi, vì thế mà Lê Thánh Tông, và cũng nhờ có sự quan tâm của Hoàng Thái Hậu
Ngô Thị Ngọc Dao, đã xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi: “Ức Trai tâm thượng
quang khuê tảo” - Tâm Ức Trai rực sáng như sao Khuê - và Nguyễn Thị Lộ: “Tiền
triều nữ sĩ bất can thí tội” - Nữ sĩ triều trước không liên quan đến tội giết
vua -, và ban chức Tri Huyện cho người con còn sót lại của Nguyễn Trãi là Nguyễn
Anh Vũ (đã đổi họ Phạm mai danh ẩn tích ở Quảng Yên).
Miếu ở Khuyến Lương được lập vào lúc này.
Như thế, 22 năm sau thảm án, đã có Chế Tẩy Oan
(Quang Thuận thứ 5, 1464).
Nhưng theo nhà giáo Hoàng Đạo Chúc, sự minh oan này
chỉ có tính cách nửa vời, vì truy phong chức tước cho Nguyễn Trãi là chức Bá, lại
kém hơn chức Hầu của ông khi còn làm quan! Và cũng né tránh không chỉ ra chính
danh kẻ chủ mưu là Thần Phi Nguyễn Thị Anh, chỉ vì muốn bảo vệ thanh danh triều
Lê. Như thế thì cũng chẳng chứng minh được sự trong sáng cho Lễ Nghi Học Sĩ.
Ngô Sĩ Liên chép sử cũng không dám viết trái với kết
luận của người đàn bà đang buông rèm nhiếp chính Nguyễn Thị Anh. Thậm chí đến đời
Nguyễn, bộ Quốc Sử Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng vẫn còn ghi chép
theo kiểu của triều Lê 1442: “Trãi phải tội liên lụy vì người vợ lẽ là Nguyễn
Thị Lộ” kèm theo lời phê của Vua Tự Đức rất nặng nề “... Trãi nếu là người
hiền thì nên sớm liệu rút lui, ẩn náu tung tích để cho danh tiếng được toàn vẹn.
Thế mà lại đi đón rước ngự giá thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm. Vậy thì cái
vạ tru di cũng là tự Trãi chuốc lấy...”
Tôi cho rằng lời phê của vị vua này thật hồ đồ và kết
luận một cách nhẫn tâm, phong kiến. Theo Tiến sĩ Hán Nôm Mai Hồng, căn cứ vào
hai cuốn phả họ Đinh và Nhị Khê, đều ghi rõ, khi vời bà vào cung, Lê Thái Tông
đã bái bà làm Lễ Nghi Học Sĩ. Dùng nghi lễ “bái” nói lên mối quan hệ giữa vua
và nữ Học Sĩ, ngoài Vua-Tôi, là Thầy-Trò, hơn nữa, bà hơn Vua khoảng 30 tuổi,
thì “việc vu khống kia thật là khiên cưỡng.” Để bản án vùi dập thanh
danh một phụ nữ tài hoa thông tuệ đã gần 600 năm...
Theo Lê Quý Đôn, Đại Việt Thông Sử, “phò giá
Thái Tông duyệt binh ở Chí Linh còn có tướng Trịnh Khả, khi vua Thái Tông đi tuần
phía Đông, mắc bệnh nguy kịch, ông hầu hạ thuốc men không rời lúc nào.” Như
vậy, không phải vua đột tử đêm mồng 04.08 năm Nhâm Tuất vì “ở suốt đêm với Thị
Lộ rồi băng” như sử của Ngô Sĩ Liên. Trịnh Khả biết rõ vua bệnh rồi chết tại
sao ông im lặng và đồng tình với việc kết tội Nguyễn Thị Lộ? Trịnh Khả và con
trai sau này cũng chẳng thoát được sự thanh trừng của tập đoàn phong kiến Thần
Phi lấy tay che trời này. Thử hỏi tại sao phải giết Trịnh Khả. Tức đã trả lời rồi.
Tưởng cũng nên nói qua về nhân cách người chép quốc
sử triều Lê là Ngô Sĩ Liên, khi ông phục vụ triều Lê Thánh Tông, đã ăn hối lộ để
tiến cử người vào làm quan trong triều, và đã bị vua Thánh Tông mắng nhiếc: “ngươi
bảo nước ta là hàng phiên bang đời xưa, thế là ngươi theo đạo chết, mang lòng
không vua. Vả lại khi Lệ Đức Hầu (Lê Nghi Dân) cướp ngôi, Sĩ Liên không giữ chức
Ngự Sử đấy sao? Ưu đãi long trọng lắm. Nhân Thọ (tức Ngô Sĩ Liên, chú thích
người viết) không dự triều chính đấy sao? Chức nhiệm cao lắm. Nay Lệ Đức Hầu
bị tay ta mà mất nước, ngươi không biết mà chết theo, lại đi thờ ta. Nếu ta
không nói ra, trong lòng ngươi không tự xấu hổ mà chết ư?” (Hoàng Quốc Hải,
Trắng Án Nguyễn Thị Lộ)
Tư cách của quan Ngự Sử là thế!
Chả trách nhà văn Hoàng Quốc Hải, trong bài viết Trắng Án Nguyễn Thị Lộ, báo Văn Nghệ số 7 năm 2003, đã viết bằng giọng đanh thép:
“... trong vụ án Vườn Lệ Chi, tôi không tin một dòng, một chữ nào mà sử gia Ngô Sĩ Liên chép vào chính sử... Nguyễn Thị Lộ trước sau vẫn là nạn nhân của một giai đoạn lịch sử ghê tởm. Thế mà gần 600 trăm năm qua chưa một sử gia nào chiêu tuyết cho bà. Chẳng lẽ tất cả đều bị Ngô Sĩ Liên mê hoặc hay sao? Tôi không tin như vậy. Nhưng tôi tin là họ vô tâm. Một sự vô tâm còn lớn hơn cả sự vô trách nhiệm... May thay, trên văn đàn vào khoảng hơn nửa thế kỷ trở lại đây, nhiều người đã quan tâm phanh phui vụ án vườn Lệ Chi...”
Theo Tiến sĩ Đinh Công Vĩ, Đại Học Quốc Gia Hà Nội,
(Điểm Qua Từ Quốc Sử Đến Ký Truyện và Tiểu Thuyết, 2002) suốt một thời gian
dài, sau Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, sau Chế Tẩy Oan có lệ của vua
Lê Thánh Tông, những Công Dư Tiệp Ký 1755, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí
1819, Tang Thương Ngẫu Lục 1896, tiểu thuyết Việt Lam Tiểu Sử 1908 của Vũ Xuân
Mai, Nam Thiên Trân Dị Tập 1917. Tất cả những sách này đều nhìn thảm án Lệ Chi
y như luận điệu của pho sử Ngô Sĩ Liên và vẫn vô ý thức khoác lên nữ học sĩ lốt
rắn báo oán!
Chỉ đến những năm 20, 30 đầu thế kỷ 20, báo Nam
Phong số 140, năm 1929, lần đầu đã nói được thực chất vụ án Lệ Chi Viên, sau đó
là Lệ Chi Viên, vở kịch lịch sử của Vi Huyền Đắc do Tiểu Thuyết Tuần San in
1932-34, và tiểu thuyết lịch sử Rắn Báo Oán của Nguyễn Triệu Luật, 1955 với 12
chương viết về Lệ Chi Viên với mục đích chiêu oan cho Nguyễn Thị Lộ.
Bài viết của tác giả Lê Thước và Trương Chính (Văn
Sử Địa số 24, 1957) nêu lên thủ phạm chính trong thảm án là Thần Phi Nguyễn Thị
Anh, đây cũng là ý kiến của sử gia Trần Huy Liệu trong tác phẩm Nguyễn Trãi,
1966, nhấn mạnh ý phải minh oan cho Nữ Học Sĩ, đã làm tiền đề cho những tác phẩm
lịch sử sau này liên quan đến Lệ Chi Án như tập truyện Nguyễn Trãi của GS Bùi
Văn Nguyên, GS đã dựa trên những bộ quốc sử triều Lê, Nguyễn, những bộ sách cận
chính sử như Đại Việt Thông Sử (Lê Qúy Đôn) những gia phả của những dòng họ
liên quan, do đó, sách của GS có giá trị đáng kể để bênh vực cho giả thuyết bàn
tay trực tiếp thấm máu Khai Quốc Công Thần và Lễ Nghi Học Sĩ là Nguyễn Thị Anh
và đồng bọn.
Cùng quan điểm này là Lệ Chi Hận Sử, truyện thơ, 2002 của Tiến Sĩ Khoa Học Nguyễn Gia Linh, Giám Đốc Nghiên Cứu Khoa Học tại trung tâm Paul Pascal Bordeaux, Pháp.
TS Sử Học Đinh Công Vĩ cũng tha thiết: “làm sao có một hình tượng Nguyễn Thị Lộ xứng
đáng trong văn học nghệ thuật, ... từ Sử học đến Văn học.” Và ông đã kết luận, rất đáng để suy gẫm:
“Không phải cứ đúc tượng vàng, cố ý dùng
quyền uy bắt người dưới xây lăng tẩm đồ sộ tốn kém của dân, tự những sáng tác
đó đã là những tượng vàng, những lăng tẩm bất tử vĩnh viễn trong lòng dân... Xã
hội Việt Nam, ... hy vọng sẽ là một xã hội của những con người lễ nghi, học vấn,
tự do dân chủ, xứng đáng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, không còn tái diễn những
Lệ Chi Viên.”
“... vụ án Vườn Lệ Chi năm 1442 tru di ba họ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ
thực chất không phải là một vụ án đơn thuần, hơn nữa nó còn là một vụ đảo chính
đẫm máu kéo dài trên hai mươi năm, do chính Thần Phi Nguyễn Thị Anh chủ trương
với sự đồng lõa của bọn họan quan... Lê Thánh Tông cũng chỉ mới làm cái việc
nên làm của một ông vua đối với vị khai quốc công thần, chứ chưa làm đúng với
tinh thần đạo lý của một người đối với những kẻ đã hy sinh mạng sống để cứu mẹ
mình và chính mình đang trong trứng nước khỏi cái tội voi dày ngựa xé...”
Đa số những bài nghiên cứu đều đồng quan điểm kẻ chủ
mưu trong thảm án này là Nguyễn Thị Anh, chỉ vì muốn ém nhẹm cái hoang thai 3
tháng trước khi trở thành Thần Phi của Thái Tông. Dĩ nhiên, việc như thế không
qua mắt nổi Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ. Lại thêm chính ông bà đã cứu Tiệp Dư Ngọc
Dao đang mang thai - là Lê Thánh Tông sau này - điều đó dễ hiểu vì sao ông bà là
cái gai họ muốn nhổ đi, để bảo vệ ngôi hoàng thái tử Bang Cơ, con hoang thai của
Thần Phi. Giết vua, hay lợi dụng vua bất đắc kỳ tử để trút tội cho hai trung thần?
Nhà văn Hoàng Hữu Đản gọi đây là một âm mưu đảo chánh là thế.
Về hoang thai của Thần Phi có một chi tiết rất thuyết
phục mà Tiến sĩ Sử Học Đinh Công Vĩ đã ghi trong bài Xé Bức Màn Dối Trá Trong Vụ
Thảm Án Lệ Chi Viên, năm 2002:
Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa
Bất thức hà nhân chúng bảo đa?
Chủ khảo Tống Thai vi linh dược
Cựu bình tân tửu thịnh
y khoa
Nhung Tân đọc lái là Nhân Tông
(tức Bang Cơ, con Nguyễn Thị Anh) Thịnh Y ý nói là Thị Anh.
Bài dịch:
Núp bóng Thái Tông làm linh dược
Thị Anh dùng ngón đổi dòng cha?
Bài thơ cho biết từ khi Thái Tông nhập phòng với Thị
Anh tới lúc sinh Bang Cơ, chỉ có 6 tháng. Nền y học Việt Nam thế kỷ 15 không thể
cứu được trẻ đẻ non 6 tháng trở thành đứa trẻ khỏe mạnh như Bang Cơ lúc sinh
ra.”
Lê Quý Đôn trong Đại Việt Thông Sử cũng khẳng định
lại việc Nguyễn Thị Anh cùng bọn nội quan Tạ Thanh dựng Bang Cơ làm vua: “khi
Tạ Thanh tiết lộ việc ấy, việc lây đến Thái Úy Trịnh Khả, Tư Khấu Lê Khắc Phục,
họ đều đem giết cả đi để hết người nói ra... Diên Ninh tự biết mình không phải
con của Tiên Đế.”
Như thế thì bài thơ trong Ngọc Phả của nhà Lân Quốc
Công Đinh Liệt là chính xác, và âm mưu cùng tội ác của Nguyễn Thị Anh thực đã
rõ ràng, mà nay gần 6 thế kỷ rồi Lễ Nghi Học Sĩ Nguyễn Thị Lộ vẫn chưa được lịch sử trả lại
sự trong sạch một cách chính thức. Từ lúc bị xử chết oan, cho đến mãi về sau,
trong quốc sử chỉ vỏn vẹn câu kết luận mơ hồ “Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ
giết vua” cùng là những lời phê vô trách nhiệm, bất lương.
Chỉ vì “Quốc Sử Âm Thầm” mà riêng Nguyễn Thị
Lộ phải “ngàn thu hận...” (thơ Ngân Giang)
Theo bài tham luận của Luật Sư Nguyễn Thành Vĩnh,
ông cũng đồng ý với nhà văn Hoàng Quốc Hải, đề nghị một Tòa Án Tối Cao Nên Thụ
Lý Vụ Án Lệ Chi Viên Năm 1442 (tựa bài tham luận):
Dù sao, cũng ghi nhận rằng 560 năm sau thảm án Lệ
Chi Viên, qua cuộc Hội Thảo Nguyễn Thị Lộ ngày 19.12.2002 tại Khuyến Lương, xem
như việc minh oan cho Lễ Nghi Học Sĩ đã được thực hiện bởi các nhà văn, nhà
giáo, luật sư, cùng các nhà nghiên cứu sử. Chỉ còn đợi một sự minh bạch bằng
văn bản của pháp luật, và của chính sử, như GS Vũ Khiêu đã viết: “... mong các nhà lãnh đạo cấp cao vào cuộc
để trả lại cho Nguyễn Thị Lộ những giá trị đích thực của bà trong Quốc Sử và
trong Nhân Tâm...”
“... Chim sâm cầm ơi! Tình của ta với Nguyễn là như vậy đó - Hư ảo-Mong
manh-Ẩn hiện- Bất ngờ. Nhưng nó lại có sức sống vượt ngoài mong muốn của ta, vượt
không gian, thời gian. Tình yêu của Nguyễn giúp ta cảm nhận được thời gian,
không gian và cả nhân loại. Không gian đó, thời gian đó, nhân loại đó nằm trong
cõi suy tư huyền ảo của Nguyễn... Và chính Nguyễn đã dạy ta biết sống, biết yêu
và biết chết... Ta muốn nói với đời lời cảm tạ rằng ta đã sống trọn kiếp người
và cái chết lại bừng lên sự sống...”
Nghe như trong nắng gió miền Nam Calif. lung linh
những trang sử bi thương từ cái chết ai oán kia, có phải là hương tóc theo về từ
chiếc trâm lay động màn bụi thời gian? Và trong gió trời tự do, tôi sẽ lần theo
hương tóc ấy để tìm dấu chiếc trâm cài, thưa Người.
Học sĩ cung vàng hương phấn dậy... (Ngân Giang)
Ntkm
Santa Ana, Tháng 09. 2013
** Năm 2009 tượng Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ bằng đồng được dựng tại
Tân Lễ (Hưng Hà, Thái Bình) quê hương của Đức Bà... Năm nay [2011] vào đầu những
ngày của tháng 09, tại Lệ Chi Viên, đã long trọng khánh thành tượng Lễ Nghi học
sĩ Nguyễn Thị Lộ. Tượng được tạc bằng đá trắng nguyên khối, trang trọng ngự bên trái ngôi
đền thờ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, tay Lễ nghi học sĩ cầm bút như đang viết
lên trời xanh... Sau lưng là dãy núi Thiên Thai hình rồng chín khúc, ... bên
trái là sông Thiên Đức, xưa là con đường giao thông huyết mạch toàn vùng đông bắc
và tưới nước cho những cánh đồng...
Phía trước, xa xa là Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương), quê ngoại của Nguyễn Trãi... Bên phải ngôi đền là tượng đài “Giọt lệ” bằng đá hoa cương đỏ được đặt trên một cuốn sách mở, tượng trưng cho tri thức. Đế là ba vòng tròn đồng tâm tạo thành tam cấp, tượng trưng cho bầu trời, cho sự giao hòa Thiên-Địa-Nhân... đồng thời cũng là sự ngầm ý ba họ bị tru di. Trụ vuông nâng cuốn sách như bầu trời trong quan niệm cổ. Tượng đài như một giọt lệ đang rơi trên cuốn sách - giọt lệ của nhân dân xót thương cho nỗi oan khiên dậy cả đất trời của những người con Trung-Hiếu-Tiết-Nghĩa. (Trần Vân Hạc-Trannhuong.com)
Qua hình ảnh của nhà văn Hoàng Kim Oanh mới gửi, tôi được biết thêm chi tiết, tại bảng ghi Giới thiệu di tích Lệ Chi Viên, có đoạn cuối như sau: “…Đền thờ được xây dựng năm 2006 gồm ba gian Tiểu Đường, một gian Hậu cung, kiến trúc chữ Đinh, quay theo hướng Nam. Bên trong bài trí các đồ thờ tự tôn nghiêm, phía trên treo bức hoành phi “Đẩu Khuê Cao Chiếu” và “Trung Trinh Tiết Liệt”, và các câu đối nội dung ca ngợi về tấm lòng sáng như sao Khuê của Nguyễn Trãi và thanh danh trong sạch của Nguyễn Thị Lộ.”
Khu di tích Lệ Chi Viên đã được UBND tỉnh Bắc Ninh
xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa, ngày 29.07.2010.
Như vậy thanh danh của Lễ Nghi Học Sĩ Nguyễn Thị Lộ
đã được chiêu tuyết trên mặt văn học, văn hóa dân gian, nhưng thiết nghĩ phải
có cả ở quốc sử, và bằng một văn bản luật pháp phủ nhận bản án Lệ Chi Viên từ gần
600 năm trước, là cần thiết và đúng nguyên tắc lịch sử hơn thì vẫn chưa xảy ra,
theo kiến nghị của Nhà văn Hoàng Quốc Hải,
Hình chụp của Nhà văn Hoàng Kim Oanh 07.11.2022