… “Diều Hâu” là biệt danh
ông bác sĩ đặt cho tính hiếu chiến của tôi. Xem ra ai cũng có vẻ bực bội về những
tin tức xáo trộn ở Sài Gòn. Ông tiếp:
- Tụi sinh viên có đứa nào bất mãn, Diều Hâu cứ việc
hốt hết đem lên căn cứ 7 giao cho tôi.
… Cầm lấy ly rượu như muốn bóp vỡ trong tay, thiếu tá Bính giọng gay gắt hơn:
- Cứ để tôi thì khỏi cần tốn phi tiễn với lựu đạn cay. Chỉ cần mấy cỗ đại liên
trí mấy đầu phố.
Xem ra chính trị đã làm phân hóa giữa chúng tôi. Rồi ông quay sang hỏi ông Bác
sĩ:
- Sao Docteur Zhivago, ông nghĩ sao về tụi sinh viên tối ngày chỉ biết có biểu
tình phá rối ấy? (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 27-28)
Nếu ngược về năm 1971-1972, đọc đoạn trên thì tôi sẽ rất bất mãn với
thái độ của mấy ông quân nhân này. Dạo đó tôi đang là sinh viên năm thứ hai Luật,
và là cảm tình viên của phong trào sinh viên phản chiến. Hồi đó chúng tôi rất
không ưa, hơn nữa còn gọi là -đám lính cảnh sát đàn áp- biểu tình. Ngày ấy, với
bọn chúng tôi, dường như hình ảnh sống có lý tưởng, là phản chiến, là hô hào
bãi khóa, xuống đường, chống chế độ, và… nghe nhạc phản chiến. Ai đã dựng nên
hình ảnh ấy và đã-thành-công trong việc hướng dẫn cái nhìn của lớp trẻ một thời?
Và cứ thế, chỉ biết phản chiến, lên án chiến tranh và gần như coi nhẹ số phận
đau đớn, bi thảm của người lính hy sinh mạng sống cho một cuộc chiến đang bị phản
đối khắp nơi! Quá tiếc là ngày đó đã không được đọc tác
phẩm này, mà nghĩ ra đó là lỗi của thông tin, dân vận của Việt Nam Cộng Hòa đã
đánh giá sai tác phẩm này để đưa đến cấm đoán và truy tố tác giả. Thực sự nếu người ta được đọc nó nhiều hơn ngay lúc đó thì đã không có
cảnh phân hóa giữa quân dân như vậy, hơn nữa nó sẽ là chiếc cầu nối tình cảm rất
hữu hiệu giữa tiền tuyến hậu phương, và như thế sẽ có một khối sức mạnh của sự
đồng lòng. Đáng tiếc. Đứng về phía miền Nam thì, nếu hồi đó họ ý thức được như
Phúc: Hoàng gốc phản chiến nhưng lại luôn luôn lên
án một phía; Phúc không kìm hãm được nói: - Nguyền rủa chiến tranh một bên có giải quyết được gì không
hay chỉ làm nản lòng những người đang chiến đấu! (Chiến Trường Tạm Yên
Tĩnh, tr. 76), họ đã không nhận thức đúng để vừa
chống mặt phi nhân tàn ác của chiến tranh, đồng thời, có được lập trường sáng tỏ
rằng, đó là cuộc chiến bảo vệ cho sự sống còn của miền Nam Việt Nam. Trong khi
đó ở miền Bắc thì họ có một khối gắn bó giữa quân dân. Để rồi… miền Nam bị xóa
tên, bức tử một đội quân mà nếu không có những người viết như Phan Nhật Nam,
Cao Xuân Huy, và nói ở đây, một Ngô Thế Vinh của Mặt Trận Ở Sài Gòn thì có lẽ
cái ánh sáng của hy sinh bi thương, hùng tráng kia không soi được đến trái tim
mọi người, để biết rằng nếu không có một sự nhìn nhận đúng mức giá trị sự hy
sinh của họ thì chúng ta đã nợ họ một sự nhìn lại đúng nghĩa, công bằng, đã nợ
họ một sự tri ân, một nghiêng mình rơi lệ. Họ đâu phải là một đội quân vô danh,
đâu thể để họ biến mất một cách phi nhân như vậy. Họ là anh hùng. Họ đã chết
cho quê hương. Và họ là anh linh. Có thể muộn màng, nhưng không thể để không
bao giờ, nói lên… Hẳn khi viết những câu truyện này, Ngô Thế Vinh
cũng đang bóc từ từ trong đau đớn từng lớp vết thương tâm thức.
Như con dấu nung
Đóng vào trái tim chàng
Chàng cúi xuống ngực mình
Từ tốn bóc…
(Trần Mộng Tú - Vết Thương Không Chảy Máu Của Chàng, tr. 13)
Hãy cầm cuốn sách ấy lên, lật từng trang, nhẹ như mở vết thương…
Nhìn gương mặt trẻ trung của những người lính ở trang bìa cùng hàng chữ
“Tưởng nhớ những đồng đội không bao giờ trở về…” tôi đã những muốn khóc… Tôi thở
sâu và biết mình phải lấy can đảm khi nhập vào không gian này của Ngô Thế Vinh,
một tác giả mà theo nhận xét của Hoàng Ngọc Nguyên:
… Đối với một tác giả như Ngô Thế Vinh, cuộc sống từ
thời thơ ấu đã từng trải từ bắc vô trung và vào nam; trường học đã đi từ Khải Định
Huế đến Chu Văn An Sài Gòn, rồi trường Y Khoa; và những năm làm y sĩ tiền tuyến
tại những chiến trường xa xôi, heo hút đẫm máu vùng Tam Biên (Việt-Miên-Lào)
cho đến ngày mất nước… cuộc đời của ông đã thừa sự phong phú mà không cần vay
mượn sự tưởng tượng.
... Ông có đủ sự tự hào và tự tin về mình để nói
lên và tìm cách diễn đạt những gì mình quan sát, nhận định, suy tư mà người
nghe, người đọc có thể đón nhận. Mặt khác, ông cũng có đủ sự khiêm tốn cần thiết
của một người hiểu được sự nhỏ bé, bất lực của con người trước “bể khổ mênh
mông”… (Hoàng Ngọc Nguyên - Đi Tìm Sự Yên Tĩnh Với Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 214-215)
Trong truyện đầu tiên, Mặt Trận Ở Sài Gòn, hiện lên một quá khứ để nhìn
lại tất cả, nhìn lại mình, đã như thế nào ở tuổi hai mươi, giai đoạn đẹp nhất của
đời người, buồn thay, cái thời mà như Hoàng Ngọc Nguyên nói “chúng ta chỉ có một
thời để sống” đã trôi qua với đầy vết tích buồn bã. Ôi các bạn thời hai mươi của
tôi, giờ ở những đâu, có đọc Mặt Trận
Ở Sài Gòn, để như tôi lúc này, đối diện với quá khứ, âu là một cách giải tỏa nội-kết
bao lâu nay…
Trong tản văn Lần Theo Mộng Ảo Mà Về, năm 2013, tôi có viết: “… Một
thời sinh viên chúi đầu vào sách vở, cho đến một ngày, đến trường bỗng ngỡ
ngàng, bọn con gái chúng tôi hỏi nhau với giọng thảng thốt, sao lớp vắng thế
này, bọn con trai đâu cả? Ra năm đó nếu tôi nhớ đúng, 1972, vừa có một luật động
viên đôn quân, tôi lúc đó như bị va đầu vào tường, cú đập choáng người. Đã từ
bao lâu sinh viên Sài Gòn -như tôi- lúc đó đi bên lề cuộc chiến? Đã bao lâu rồi?
Dân Sài Gòn luôn tin rằng Sài Gòn là một ốc đảo mà con sóng của chiến tranh
không thể đổ vào bờ. Đã bao nhiêu người tin rằng Sài Gòn là biên giới dừng lại
của đường đi súng đạn, chủ nghĩa? Tôi mắc cỡ và cảm thấy như có lỗi... Chúng
tôi như những viên gạch lát ngô nghê. Chỉ biết nghêu ngao những điều vô nghĩa
trước một thực tế, máu của người dân hai miền đã đổ và thanh niên không ngớt bị
tung ra chiến trường.”
Vậy đó. Lớn lên cùng cuộc chiến, rồi khi qua cơn “thay đổi sơn hà 1975”
thì mới vỡ ra được nhiều điều… Hồi đó khi những thành phố, thủ đô Sài Gòn còn
yên bình, không ít lớp thị dân sống như thể đô thị này, chiến trường kia là hai
thế giới hoàn toàn khác. Rất đúng khi người lính đã có phản ứng:
… mà hơn thế nữa, giữa quê hương còn một thứ xã hội trên cao lộng
lẫy sáng choang và thản nhiên hạnh phúc. Cái thế giới khác xa họ, chỉ có ngào
ngạt hương thơm và những hưởng thụ thừa mứa. Của một đám người kêu gào chiến
tranh nhưng lúc nào cũng ở trên và đứng ngoài cuộc chiến ấy.
Rồi những người lính bơ vơ tự hỏi, cầm súng họ bảo vệ cái gì đây? Không lẽ cho
một con thuyền xa hoa ngao du trên dòng sông loang máu, nổi trôi đầy những xác
chết đồng loại. Cho sự an lạc của một dúm xã hội trên cao, cho những chăm sóc
của những con chó con ngựa hơn cả tang thương của kiếp sống? Với những người trẻ
tuổi chỉ biết sẵn sàng, lúc nào cũng sẵn sàng chấp nhận hy sinh cả tính mạng
của họ để chiến đấu với kẻ thù ngoài chiến trường - tại sao bỗng dưng lại đưa họ về thủ đô. Không lẽ những mộng tưởng
binh nghiệp chỉ có thể biến chúng tôi thành những tên gác dan cho bọn nhà giàu,
một thứ cảnh sát công lộ chỉ đường trên dòng luân lưu của lịch sử. (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 30)
Để hiểu tâm trạng của
người lính khi về trấn giữ thủ đô: … rằng chiến trường sắp tới của chúng tôi
sẽ chẳng phải là núi rừng Tây nguyên, mà đích thực là một cuộc chiến tranh
trong thành phố … Rằng không phải chỉ ở chốn xa xôi biên cương - mà đích thực chiến-trường thách-đố của họ phải là ở Sài Gòn... (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 22, tr. 31)
Mà oái oăm, họ đã cảm
giác mình như bầy thú hoang lạc về thành phố:
… Không nói ra, ai trong chúng tôi cũng cảm thấy mỏi mệt trước khi
dấn thân vào cái chiến trường buồn tênh ấy. Chỉ quen với rừng rú, xuống đó đám
lính của tôi sẽ như bầy thú hoang về thành - lạc lõng bơ vơ. (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 29)
Họ bị tiêu hao bao
nhiêu sức mạnh khi bị cô đơn ở hậu phương? Đáng lý nơi đó phải cho họ thêm năng
lượng mới đúng! Và mấy ai trong cuộc biểu tình hiểu được thế lưỡng nan của
người lính nhận trách nhiệm ổn định an ninh đô thị:
… Nếu rõ ràng nhiệm vụ được giao phó là sự có mặt lâu dài ở Sài
Gòn, tôi sẽ xin được rời khỏi đơn vị để về một bệnh viện nào đó trên cao
nguyên; mặc dù trước đây tôi vẫn tâm niệm rằng đơn vị này là nơi duy nhất tôi
đã lựa chọn cho suốt thời gian quân ngũ của mình… Một đằng là những người lính
mà ông có bổn phận phải chăm sóc, một đằng là những thanh niên sinh viên đang
tham dự cuộc đấu tranh, mà quan điểm của họ được chính ông có phần chấp nhận và
chia sẻ. Rõ ràng chúng tôi chỉ là một bánh xe nhỏ trong một guồng máy lớn lao… (Mặt Trận Ở Sài Gòn tr. 29, 28)
“Chúng tôi” trong câu nhân vật bác sĩ này nói không chỉ riêng là các
anh, mà bao gồm cả chúng tôi, cả con dân nước Việt trong một guồng máy
mà ở đó không ngớt tóm lên và quăng thanh niên vào trận địa … để chỉ còn là thụ động chấp nhận - như
một định mệnh, đi vào cuộc chém giết vô tri giác… (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 40)
Trong bối cảnh thời “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mỹ quyết định bỏ rơi đồng
minh, chua xót bi phẫn làm sao, khi lính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu
trong tình huống và tâm trạng, như Tim Page đã nhận
định: “… có rất ít sách đề cập tới quan điểm từ miền
Nam, từ góc cạnh của những người thất trận nhưng họ đã từng chiến đấu và tin tưởng
ở một nền Cộng Hòa miền Nam mới khai sinh. Ngô Thế Vinh qua kinh nghiệm của một
y sĩ trong một đơn vị Biệt Cách thiện chiến đã đem tới cho chúng ta những lý giải
và soi sáng về những tình huống lưỡng nan ngoài trận địa…” (TIM PAGE,
Life – Time, UPI Freelance Reporter, tr. 226-227)
… Ý thức sáng suốt rằng khoảnh khắc nữa
đây, chúng tôi sắp từ cửa trực thăng nhảy xuống đất Miên, cùng với tin thời sự
Tổng thống Mỹ Nixon sắp sang Bắc Kinh rồi Mạc Tư Khoa chuẩn bị cho một giai đoạn
giải kết, để rồi chỉ còn sự đối đầu thù nghịch trơ trẽn giữa những người Việt,
như một chia lìa lịch sử, một thảm cảnh không thể tránh … một thứ đấu trường mà
chỉ có người Việt là những tên giác đấu hung hãn với võ trang là mâu thuẫn ý thức
hệ và cả sự u mê… … Không phải chỉ bởi súng đạn mà chính những
bế tắc tinh thần đã khiến chúng tôi không còn khả năng suy diễn một điều gì. Đầu
óc chỉ còn là một khối chất xám vữa nát, để chỉ còn là thụ động chấp nhận - như
một định mệnh, đi vào cuộc chém giết vô tri giác. Còn lại chăng, là thổn thức một
trái tim Việt Nam chưa đổi khác, không còn biết hân hoan mà chỉ còn chung một nỗi
hận thù đau đớn ... (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 40)
… Những người lính cầm súng ý thức đã
phải chiến đấu với lòng tổn thương và hoàn toàn mất tin cậy bên cạnh một đồng
minh chỉ biết đặt quyền lợi của họ lên trên cả những mục tiêu tranh đấu tối thượng
của dân Việt. Còn riêng đối với Bắc quân, việc phải
thí mấy chục ngàn quân để đạt mục tiêu có giá trị chiến lược là điều rất có thể
và rất dễ làm. Đó là lý do khiến chúng tôi đã phải vừa cầm súng chiến đấu vừa
phải tự ước lượng mức độ của cuộc chiến tranh trong màn hỏa mù để không tự biến
thành một đống tro than trong những giờ tàn của cuộc chiến… (Dấu Ngoặc Lịch
Sử, tr. 50)
… Từ một quan niệm hết sức đơn giản, phục
vụ tổ quốc bằng cái chủ nghĩa kỳ cùng, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, tôi đã
không thể quan niệm có chính trị trong tập thể quân đội và dứt khoát không muốn
dính dáng đến nó. Nhưng dần dà, với dạn dày những chung đụng, tôi thấm thía hiểu
rằng không phải chỉ có cầm súng, nhưng chúng tôi còn đang bị xô đẩy vào những
hoàn cảnh lắt léo của một thứ chính trị vây bủa. Đã tới lúc người lính phải xác
định cái vị trí hoàn cảnh của mình và tự hỏi tại sao lại đang phải chịu rất nhiều
hy sinh và tiếp tục cầm súng chiến đấu. (Hòa Bình
Không Sớm Hơn, tr. 59)
TÍNH NHÂN ÁI, TÌNH
NGƯỜI TRONG MẶT TRẬN Ở SÀI GÒN
Sống trực tiếp trong
cảnh khốc liệt của chiến trường, chứng kiến những ra đi đau đớn của đồng đội,
mà khi nói về phía bên kia không một giọng hằn học, chỉ là tường thuật sự kiện
trung thực, với thái độ chấp nhận một cách trầm tĩnh của một người hiểu thấu sự
thúc thủ của những con ốc trong một guồng máy, và với cái chết tới bất cứ phút
nào. Tôi rất ngưỡng mộ cái tính cách kẻ sĩ, đại trượng phu của ông, mà được vậy
nhờ gốc rễ tình người trong ông, xin trích:
… Và chúng tôi đã sẵn sàng ở vị thế tấn công. Sẽ chẳng
còn phân biệt nào trên đấu trường. Không có đối thoại giữa súng đạn. Và chỉ còn những người Việt anh dũng - hai phía, tự nguyện đem thân làm đuốc hâm nóng cuộc chiến
Đông Dương (Nước Mắt Của Đức Phật - tr. 40). Tôi muốn tô
đậm câu Và chỉ còn những người Việt anh dũng - hai
phía… Đã có mấy ai viết về chiến tranh mà
nhìn nhận thẳng thắn phía đối đầu như thế?
… Và năm nay, riêng chiến dịch Đông Xuân, với cao điểm Mùa Mưa -
theo phát ngôn viên chánh phủ, đã kết thúc bi thảm cho phía những người chiến
sĩ Giải phóng... (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 22)
Những danh xưng ông
dùng chỉ phía bên kia cho ta thấy một cung cách điềm đạm, anh và tôi, mang cùng
thân phận, trong một cuộc đối đầu mà ông chua chát - sự đối đầu thù nghịch trơ trẽn giữa những người Việt - (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 40)
Tính nhân ái thể hiện rất rõ trong truyện Hòa Bình Không Sớm
Hơn, trải qua một cuộc hành quân sống chết ở rừng già cao nguyên năm 1971, mà
nhân vật Hổ Xám vẫn có được cái tình cảm rất hòa bình, rất con người, với tù binh:
… Gã tù binh còn rất trẻ, tuy ốm xanh
xao nhưng khuôn mặt lanh lợi và ánh mắt thì say đắm. Hắn gợi cho tôi hình ảnh đứa
em trai tử trận cũng trên vùng thảo nguyên này cách đây không bao lâu. Lòng tôi
như sôi lên một tình cảm rất khó diễn tả: vừa giận dữ vừa xen lẫn thương cảm. Nhưng
rồi cái khuôn mặt trẻ thơ ấy đã khiến lòng tôi nguôi ngay lại … … Không phải chỉ
vì nhu cầu nguồn tin tức cần khai thác, mà thật giản dị tôi tự thấy có bổn phận
phải cứu sống nó. Ánh mắt nó nhìn tôi tin cậy … Tôi thì vẫn thành thật tin tưởng
rằng hắn sẽ không sao cho tới khi cùng Đại Đội về đến căn cứ. Vả lại trong thâm
tâm tôi muốn được có mặt, tham dự trong cách đối xử mà tôi nghĩ sẽ khác hơn
riêng đối với hắn. (Hòa Bình Không Sớm Hơn, tr. 60, 61)
… khi nghe tiếng vỗ cánh của đoàn trực thăng sà trên bãi
thì vẻ mặt hắn biến sắc và để lộ một vẻ sợ hãi khủng khiếp … hắn chỉ kịp quơ
tay về phía trước níu lấy tôi kêu thất thanh một tiếng “Anh” rồi ngã rũ xuống
và chết tốt … Tôi đưa tay vuốt mắt hắn, mi mắt còn ấm nóng khép lại dễ dàng…
Thôi ngủ đi! Tôi nhủ thầm dịu dàng và chưa bao giờ lại thấy gần gũi thân thuộc
với cái chết đến như thế. (Hòa Bình
Không Sớm Hơn, tr. 62, 63)
Ở chiến trường có những cái chết khó có thể hình dung nổi,
như người tù binh trên, chết chỉ vì nghe tiếng máy bay sà xuống, như dùng xác
chết thành một thứ bẫy để giết thêm người, và chết oan khốc Xác của những người
bạn bị oanh kích lầm với thứ hỏa tiễn mũi tên xóa tan cả mặt mũi, và…
Xin đọc đoạn văn cảm động sau, để ngậm ngùi thương cảm cho
tình tự mong manh của nhân vật Hổ Xám, và cũng gây cho ta được niềm tin vào sự
tồn tại của tính nhân bản - Cổ họng như đau thắt, tâm hồn tê mỏi nhưng tôi
chẳng thể nào có được một giọt nước mắt để khóc. Trong thâm tâm tôi rất muốn được
khóc - (Hòa Bình Không Sớm Hơn, tr. 64)
Đó là gì nếu không phải là Tình Người?
Đây cũng là một đoạn văn tả cảnh rất hay khiến tôi thấy được
cái hoang liêu đìu hiu mấy gò, gió ù ù thổi… (Chinh Phụ Ngâm) của bãi chiến
trường, càng thấm cái “tê dại, vô cảm” của nhân vật khi nhìn xuống xác tù binh
cô đơn trên bãi.
… Lúc này, riêng tôi thấy là nhẫn tâm
khi phải bỏ xác hắn tại bãi. Khi tôi là người cuối cùng bước lên trực thăng,
con tàu vội vã bốc vọt lên trên một nền trời ủ dột đang vần vũ kéo tới những
đám mây bão. Nhìn xuống bãi, gã tù binh vẫn bất động nằm yên như im ngủ, phủ
trên mình thay cho lá cờ chỉ là một chiếc võng xanh xao. Cũng đành để hắn ở lại
với rừng núi quạnh hiu, và riêng mang theo trong tôi cái tình cảm day dứt khó tả.
Phải chi còn đủ thời gian để đào xong một chiếc huyệt cho dù chỉ đủ vùi nông
thân xác hắn.
Gió lộng từ những cánh quạt trực thăng, tạt những cụm mây đầy hơi ẩm vào da mặt
tôi buốt rát. Da thịt tê dại, cả tâm hồn cũng tê dại, gần như vô cảm, tôi không
còn suy nghĩ hay phản ứng được gì … Trung sĩ cận vệ thân tín lên tiếng nhắc tôi
và cố nói to. - Em thấy là Hổ Xám quên. “Không, lần này không phải là tao
quên.” Nó nhắc tôi việc gài một trái lựu đạn rút kíp dưới xác người tù binh mới
chết phải bỏ lại dưới bãi. Hơn một lần địch đã hành động như vậy và gây cho
chúng tôi tổn thất. Nhưng ở lần này thì tôi lại nghĩ rằng cho dù có làm thêm một
cạm bẫy xác nữa, gây thêm được một vài chết chóc, không vì thế mà ngày mai Hòa
Bình sẽ trở lại sớm hơn. (Hòa Bình Không Sớm
Hơn, tr. 64, 65)
NHỮNG NHỊP DỪNG THƠ MỘNG TRONG KHÓI LỬA
Bên cạnh những đau thương cảm động của tình đồng đội, không
khí ngộp thở của chiến trường, như tôi đã nói ở trên, có những đoạn văn tả cảnh
với những ngôn từ, hình ảnh buồn diễm lệ, khiến nó như một nhịp dừng cho người
đọc quên lãng căng thẳng. Trong người lính Ngô Thế Vinh là một người thơ, nhạy
cảm và chan chứa tình người. Người lính ấy trên đường hành quân ghi nhận lại những
suy tư, những cảm xúc trước cảnh vật với cái nhìn tinh tế, những dòng văn như
khúc đàn bi ai được gẩy lên bởi sự đồng điệu giữa tâm hồn người và cảnh sắc.
… cứ vào đầu mùa mưa, chúng tôi cùng những đơn vị bạn từ vùng đồng
bằng châu thổ, ùn ùn kéo lên cao nguyên để tao ngộ với những đại đơn vị địch
quân - để tranh nhau một vài ngọn đồi trơ trụi hay giành giật một khúc lộ trống…
(Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 22)
Bạn cảm xúc sao với
chữ “tao ngộ” dùng chỉ sự chạm trán một trận chiến? Cách dùng chữ của ông nhà
binh Ngô Thế Vinh có dụng ý hay không, để giảm bớt nguy cơ nhồi máu cơ tim cho
người đọc khi kéo họ vào không khí khiếp đảm của chiến trường? Những hình ảnh
tỷ dụ, những động từ được dùng một cách rất tượng hình, đẹp, lạ, và chính xác
đến ngỡ ngàng làm tôi muốn trào nước mắt, tôi biết nhờ hồn thơ bi cảm đã giữ
cho ông còn được năng lượng để tiếp xúc, để rung động với cảnh vật thiên nhiên
trong tình huống sinh tử:
… Vào buổi sáng tinh sương ngày N, khi
sương mù còn bao phủ mờ mịt núi rừng quanh ngọn đồi 1003, từ trên cao trên cả
những đám mây, trong sự hồi hộp của mọi người, chiếc trực thăng cán gáo như một
chiếc lá, đã bất chợt rơi nhẹ nhàng xuống căn cứ an toàn… (Mặt Trận Ở Sài Gòn,
tr. 25)
... Xác của người phi công được trực thăng móc ở rừng ra, héo rũ
trên dây treo như cách người ta câu về những con thú. (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 27)
… Tách khỏi đội hình, giảm dần cao độ, chiếc tàu thả chếnh
choáng trên những ngọn cây... (Nước Mắt
Của Đức Phật- tr. 40)
… Bầu trời cực trong xanh và không mây.
Không có dấu hiệu của một thời tiết sắp xấu. Những ô ruộng loang loáng nước. Ngọn
núi Bà Đen ở phía xa đàng sau - hiện diện như một lầm
lỡ của hóa công, một dị dạng của địa hình châu thổ - trơ
trụi nhô lên từ mặt phẳng xanh đồng bằng. Ngọn núi chứa đựng nhiều kỳ bí và huyền
thoại. Nơi của muỗi độc, sốt rét rụng tóc và của những trận đánh kinh hoàng.
Nơi còn vùi xác của những đồng bạn ở cuộc hành quân cách đây bốn năm trước. Những
đêm trăng rừng còn như in trong óc, trăng ở Bà Đen cũng mang bộ mặt xanh xao
như bị sốt rét ngã nước. (Nước Mắt Của Đức Phật - tr. 36-37)
… Nhớ lại hôm gặp Tom trên cánh đồng trải dài đến tận chân núi đá; từng đàn dê
lổ loang trên đó, một chú dê đực cắt hình trên nền trời từ một mỏm đá thật cao.
Biển xanh phẳng lặng phía xa, rải rác những cánh quạt gió chuyển động chậm, kéo
nước biển lên những ruộng muối đọng trắng ... Từng cơn gió nồng thổi trườn trên
những thửa đất bốc hơi co rút. Cảnh đồng quê sau lũ lụt lại mang vẻ khô héo xác
xơ như mùa hạn. (Chiến trường Tạm Yên Tĩnh, tr. 71,
tr.76)
… từ đồng ruộng xanh dưới kia đã nổi bật
chiếc mái cong, kiến trúc đặc biệt của những ngôi chùa tháp. Làng xã không mấy
khác làng xã của Việt Nam nhưng khang trang hơn. Những mái nhà ngói đỏ san sát,
xen lẫn những mái tranh xám. Ngọn khói lam của buổi chiều, lũ trẻ nhỏ và đàn
trâu bò về chuồng. Khung cảnh nên thơ của một khoảnh đất Á châu còn chút thanh
bình kia liệu sẽ còn kéo dài thêm được bao lâu nữa hay thực sự đã qua rồi…. Đàng xa về phía nam,
nắng chiều rắc vàng trên dòng Cửu long bao la đầy cá và phù sa. Chập chùng là
những cánh rừng cao su tiếp nối với rừng già. Cũng đã hiện ra những ngôi làng
trơ trụi bỏ hoang với từng dãy hố bom B52 cày nát. Không còn dấu hiệu người và
sinh vật ở dưới đó. Lại như một Dakto, Khe Sanh hay Sơn Mỹ của Việt Nam? Bom đạn
giữa những người Việt đã xô dạt những người Khmer kia đi về đâu? Cả xứ Chùa
Tháp này đi về đâu? Trong cái mênh mang của cơn say lịch sử, có ai nghĩ được rằng
cuộc chiến đang diễn ra giữa những người Việt lại có thể xóa nhòa một nền văn
minh Angkor cổ kính. Và trong cái hoang vu lặng lẽ của buổi chiều tàn, giữa
ngôi làng đổ nát kia, tôi tưởng tượng rằng vẫn còn một người đàn bà không rõ mặt
mũi vẫn ẩn nhẫn ngồi ôm đứa con ru cho bú. Phải chăng vẫn còn hình ảnh an ủi
tuyệt đẹp và ngàn năm của ý nghĩa tồn sinh nhân loại… (Nước Mắt Của Đức Phật - tr. 39)
Trên là đoạn tả cảnh cùng suy tư không phải của một người đang ngồi trên
máy bay du lịch, mà là suy tư của một người lính sắp được thả vào chiến trường
- Ở đó con người chẳng thể định đoạt được gì ngoài
sự chấp nhận rủi may như một định mệnh - Cái đẹp ở đây là cái đẹp của bi hùng, vừa
sầu buồn vừa cao cả - một thứ tâm hồn Ngô Thế Vinh-, như trong đoạn kết chuyện Nước Mắt Của Đức Phật:
… Và cũng không xa Cục R bao nhiêu về hướng Đông Bắc, sau
bảy ngày thất lạc trong hoang vu của rừng già, có hai bóng ma lần mò được vào một
ngôi làng đổ nát, người được cõng trên vai gần như đã chết. Và suốt trong đêm
hôm đó tại một ngôi chùa Miên bỏ hoang, có một người lính Công giáo Việt Nam kiệt
quệ và đau khổ, quỳ gối bên xác một đồng bạn, mắt đẫm lệ hướng lên vẻ mặt an
tĩnh của Đức Phật thành tâm cầu nguyện cho linh hồn người bạn xấu số sớm được
giải thoát. Và bên ngoài trời cơn mưa bão vẫn tràn trề. Gió lung lay cả đêm dài
vô minh đang bao trùm khắp Á châu lục địa. (Nước Mắt Của Đức
Phật, tr. 42-43)
Ở đây, có vẻ mặt an tĩnh của Đức Phật và mắt đẫm lệ của người lính đang cầu nguyện cho linh
hồn người bạn chết trên vai. Bạn ơi, có phải Nước Mắt Của Đức
Phật đang thị hiện qua nước mắt đang rơi trên mặt người lính sống sót kia? Nghĩ
thế tôi càng ngưỡng mộ tác giả khi lấy tựa đề như thế để rồi kết một đoạn như
khai-thị cái niềm tin sâu sắc, Phật tánh trong mỗi con người, người lính ấy trong
giây phút vô cùng đau khổ đã nhỏ những hạt nước mắt Phật, đã là một vị Phật.
Đó là một thông điệp của tác giả.
VẾT THƯƠNG CHƯA LÀNH
Nói đến nỗi đau, vết thương tâm, ở trong tập truyện này ta
thấy những hình ảnh như,
… Từ sáu năm rồi mà vẫn tưởng như mới hôm qua với cơn đau lột
da ấy. (Giấc Mơ Kim Đồng, tr. 70)
… Cũng phải kể tới vết thương khác không chảy máu Bloodless Wounds PTSD
- hội chứng tâm thần sau chấn thương ở những năm sau khi anh đã trở lại nước Mỹ… (In
Retrospect - Nhìn Lại, tr. 104)
… Những vết thương chưa
bao giờ thực sự lành (In Retrospect - Nhìn Lại, tr. 109) nơi những người sống
sót.
… Phan cũng tự hỏi đến bao giờ, cả chính chàng nữa mới thực sự
thoát ra khỏi cuộc chiến tranh đã vào quá khứ từ 17 năm rồi. (Một Bức Tường Khác, tr. 101)
… cùng với tin thời sự Tổng thống Mỹ
Nixon sắp sang Bắc Kinh rồi Mạc Tư Khoa chuẩn bị cho một giai đoạn giải kết, để
rồi chỉ còn sự đối đầu thù nghịch trơ trẽn giữa những người Việt, như một chia
lìa lịch sử, một thảm cảnh không thể tránh… (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 40)
Một thảm cảnh như vết sẹo lồi nhô hoài trong tâm thức, mỗi khi cào lên lại
thốn đau. Không chỉ người Việt, đồng minh Mỹ ngoài hơn năm chục ngàn lính Mỹ
bỏ thân nơi chiến trường Việt Nam, số thoát được khỏi đêm dài vô minh
(NTV) ấy trở về thì mang đầy thương tích về thể xác lẫn tâm hồn, di chứng của
chiến tranh khiến họ không thể bình thường hội nhập trở lại trên chính quê nhà
của họ.
… Jim thường xuyên phải sống trong những
cơn ác mộng và hồi tưởng buồn bã về các kinh nghiệm chiến trận đau thương ở Việt
Nam. Hắn cảm thấy phẫn nộ vì sự thờ ơ và cả thiếu kính trọng của xã hội đối với
hắn và các bạn đồng đội, lẽ ra khi trở về chúng tôi phải được đối xử như những
anh hùng... (Một Bức Tường Khác, tr. 99)
… Đã không thiếu những cuộc duyệt binh với rừng cờ sao và sọc
và cả rực rỡ những dải băng vàng để chào mừng những người lính như những anh
hùng trở về sau cuộc chiến tranh chớp nhoáng mấy tuần ở Vùng Vịnh Desert Storm
và rồi cả với những cuộc chiến tranh khác; nhưng hình như đã không có một đối xử
như vậy đối với những người cựu chiến binh trở về từ Việt Nam… Họ, đa số là những
cựu chiến binh Việt Nam bị lãng quên; phải chăng chỉ vì họ bước ra từ một trận
chiến đã không có được chiến thắng vinh quang hay nói trắng ra là trận chiến mà
lần đầu tiên nước Mỹ đã bị thua… Họ đã hy
sinh một phần đời tuổi trẻ của họ, chịu đựng cả những mất mát - để
phục vụ cho một xứ sở có tiếng là giàu có nhất thế giới, để rồi khi giải ngũ, một
số không ít phải sống như những người vô gia cư trên các đường phố, chịu đói
khát thiếu thốn trong tình cảnh cô đơn và tuyệt vọng… họ vẫn mãi chưa được
trở về nhà… (In Retrospect - Nhìn Lại, tr. 105, 106)
Họ vẫn mãi chưa được trở về nhà… Lưu vong trên đất mẹ của mình, và như nhân vật Phan, sau 17
năm chiến tranh vẫn không rời để anh mãi lưu vong trên tâm thức của mình. Một
thứ hội chứng tâm thần - Vết thương không chảy máu. Ôi cái gọi là chiến tranh Việt Nam nơi hình ảnh anh lính
Gumber treo cổ lơ lửng trên thanh xà bến xe bus, linh hồn mãn nguyện: No
more Vietnam, Vietnam never again. Cuộc chiến Việt Nam và cả nỗi đau của những
vết thương thực sự chấm dứt từ đây. Việt Nam, nay thì anh đã thực sự giã từ… Và
anh Gumber vẫn chưa phải là người lính Mỹ cuối cùng chết trong trận chiến tranh
Việt Nam (In Retrospect - Nhìn Lại, tr. 110, 111), rồi thì, người y tá
cựu binh, không bị thương ở mặt trận mà vì thứ mìn muỗi chống cá
nhân, chẳng biết ai đã ném vô và nằm im trong đám ruộng nhà mình tự bao giờ…
Hòa bình rồi hạnh phúc tính là dài lâu nhưng rồi ra cũng chỉ là tính riêng cho
mỗi từng ngày… (Người Y Tá Cũ, tr. 122)
Tôi cũng ngậm ngùi tự hỏi như tác giả, bức tường nào, trang
sử nào để ghi thêm những cái chết, và bị thương của chiến tranh sau chiến tranh
ấy?
KHI NHỮNG NGƯỜI SỐNG QUÊN NGƯỜI CHẾT, THÌ NGƯỜI CHẾT ẤY CHẾT ĐI LẦN THỨ HAI…
(Sẽ Rực Rỡ Mùa Thu Này, tr.121)
Tôi hình dung mình
đang đứng nhìn lá cờ bay phất phới dưới trời xanh trong một buổi vinh danh có
oan hồn tử sĩ trở về từ bụi đất, ngọn đồi, sông suối, khu rừng máu đạn khi xưa,
và niềm vui của đoàn tụ siêu hình ấy tháo gỡ cho tôi cái mặc cảm u sầu bao lâu
nay.
… Không kể những người đã chết, chỉ
riêng trong đám sống sót trở về - có thể nói họ xứng
đáng mang danh anh hùng bằng chính những chiến tích lẫy lừng đi vào huyền thoại.
(Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 24)
… Liệu phải cần bao nhiêu trang sách để
nhắc tới những chiến tích lẫy lừng của các anh hùng vô danh này. Ngay từ phút vừa
đặt chân xuống đất, hoạt động suốt 96 giờ của toán 81 là một thiên anh hùng ca
rực rỡ. (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 41)
… Đã bao năm rồi, biết
bao nhiêu nước chảy qua cầu, có quá nhiều điều để không thể nào quên. Ngay
trong tù đày, những hình ảnh hồi tưởng chưa bao giờ là cuộc duyệt binh vĩ đại đầy
màu sắc và ồn ào của ngày Quân lực; mà luôn luôn là những bước chân diễn hành
thầm lặng của một tiểu đội lính vô danh ở ngày giờ cuối cùng của một thành phố
trước khi mất tên Sài Gòn. Người
chuẩn úy ấy bây giờ ở đâu, trong một trại cải tạo nào, còn sống hay đã chết, số
phận những người lính can đảm kỷ luật tới giờ phút chót ấy bây giờ ra sao, cũng
không ai được biết. Liệu có thêm được một dòng chữ nào giữa những trang quân sử
viết dở dang để nói về cuộc diễn binh kỳ lạ cấp tiểu đội mang biểu tượng hào
hùng của quân lực ở ngày giờ cuối cùng trước khi cả toàn quân tan hàng rã
ngũ... (Cựu Kim Sơn Chưa Hề Giã Biệt, tr. 91)
Câu hỏi rất xót, có
cái gì như mệt mỏi thất vọng… Trang sử trung thực nào để anh linh của họ được
an nghỉ dưới ánh sáng của tri ân, tưởng nhớ, chứ không chỉ là nghĩa trang bị bỏ
phế đìu hiu, lá khô xao xác trên những tấm bia vỡ và những bình nhang trống. Dù
sao, ít ra giờ chúng ta đã có những dòng chữ này của Ngô Thế Vinh, như một sự
tưởng niệm công bằng…
… Jim cũng như đa số những người cựu chiến binh Việt Nam được
gọi là còn sống, nhưng họ giống như những mảnh bom đạn vương vãi, thực sự chưa
thoát ra khỏi trận địa Việt Nam. Liệu có còn thêm một bức tường thương khóc nào
khác ở Hoa Thịnh Đốn đủ dài để có thể ghi tên và vinh danh họ. (Một Bức Tường Khác, tr. 101)
Một bức tường khác,
những trang quân sử còn thiếu sót… Hẳn còn rất lâu, hoặc chẳng bao giờ, những
ước muốn này vẫn chỉ là những ước mơ ngậm ngùi… Nhưng ước mơ đó là một thông
điệp đầy tình người của tác giả.
NGÔ THẾ VINH, MỘT
CHIẾN SĨ XÃ HỘI
Trong truyện Mặt Trận Ở Sài Gòn, chứng kiến cảnh thối nát bất công của
xã hội, tác giả nêu lên một ưu tư:
… Rằng ngoài chiến trường súng đạn quen thuộc, họ còn phải đương
đầu với một trận tuyến khác mỏi mệt hơn - đó là cảnh thối nát
bất công của xã hội mà dân tộc đang phải hứng chịu trong tối tăm tủi nhục... Từ ba mươi năm nay, đã và đang có quá nhiều anh-hùng-của-chiến-tranh
trong khi lại quá thiếu vắng những chiến sĩ xã hội... (Mặt Trận Ở Sài Gòn,
tr. 31)
… Những câu chuyện cách đây cả 50 năm ở một nơi nay
quá xa xôi bỗng dưng sống lại một cách da diết trong trí nhớ, trong con tim của
mỗi chúng ta khi có “Mặt Trận Ở Sài Gòn” đặt đầu bàn ngủ (không phải gối đầu
giường). (Hoàng Ngọc Nguyên, Đi Tìm Sự Yên Tĩnh Với “Mặt Trận Ở Sài Gòn”, tr.
214)
Chắc là như vậy vì
ngay lúc này sau khi đọc hết rồi tôi vẫn cảm thấy chưa thể rời được nó. Phải để
ở cái bàn nhỏ có ngọn đèn vàng ấm kia, để nhìn, nhìn mỗi ngày vào vết thương
chưa thực sự lành ấy. Nhìn, cho đến khi nào chuyển hóa được vết
thương này. Và chìa khóa của chuyển hóa phải chăng là thấy được ít nhiều hiện thực
của những giấc mơ -ít nhất cũng là của Ngô Thế Vinh - của những người đồng một quá khứ thương
tâm và đau đáu thiết tha những giấc mơ đẹp đẽ, một trong những giấc mơ ấy là một
mái ấm của Trăm Họ Trăm Con, nơi ấy sưu
tập và lưu trữ những giá trị của quá khứ, nơi hội tụ diễn ra sức sống sinh động
của hiện tại, và là một điểm tựa thách đố hướng về tương lai, chốn hành hương
cho mỗi người Việt Nam đang sống bất cứ ở đâu trong lòng của thế giới.
Và … Hiện thực của giấc mơ nào đi nữa không phải chỉ do
hùng tâm của một người mà là ý chí của cả một tập thể cùng nhìn về một hướng,
cùng trông đợi và ước ao niềm vui của sự thành tựu... (Giấc Mộng
Con Năm 2000, tr. 152)
Xin mượn lời của Tim Page để kết bài viết:
Đọc Mặt Trận Ở Sài
Gòn để cảm nhận lắng nghe nỗi bâng khuâng của một con người vẫn gắn bó với những
cội rễ tinh thần của một quê hương Việt Nam không thể tách rời. (TIM PAGE, Life – Time, UPI Freelance Reporter)
Santa Ana, October 6, 2020
Ntkm
* chữ Ngô Thế Vinh trong
truyện Nhìn Lại.
** Tập
truyện song ngữ “Mặt Trận Ở Sài Gòn / The Battle of Saigon” đã được phát hành và bán trên
trang mạng
Amazon
từ ngày 16/10/2020.