BA TẤC
SEN VÀNG
三寸金蓮
Nguyễn Duy Chính
Lời mở đầu:
Mới đây tiểu bang California đã thông qua một đạo luật cho phép người
đàn bà được quyền cho con bú nơi công cộng. Thế nhưng nhiều luật gia vẫn lên tiếng
chỉ trích là đạo luật đã xóa đi một nét đặc thù của nền văn minh, nền văn minh
Tây phương mà chúng ta đang thấy.
Cứ theo những tài liệu về nghệ thuật và văn hóa, người Âu Châu đã
chiêm ngưỡng cái đẹp thân thể từ rất lâu, nhất là bộ ngực người đàn bà. Những
pho tượng cổ của Hi Lạp cho thấy là nét đẹp mà họ tôn sùng hai ngàn năm trước đến
nay vẫn còn được nhiều người chấp nhận. Tuy nhiên, khi đối chiếu với những dân
tộc khác, sự chiêm ngưỡng bộ ngực – để rồi trở thành một thứ cấm kỵ như ngày
nay – không mấy phổ thông. Chỉ có 13 trong số 190 dân tộc trên thế giới coi hai
trái đào là biểu tượng của dục tính. Chín trong số 13 dân tộc này trọng bộ ngực
to, hai dân tộc thích loại vú mướp (pendulous) và hai dân tộc còn lại thì thích
bộ ngực vểnh lên. [1] Tuy nhiên, tại nhiều nơi, dù có coi bộ ngực
đàn bà là gợi cảm thì cũng vẫn không coi việc cho con bú nơi công cộng là vấn đề
vì đó là một bản năng của con người vốn dĩ nguyên thủy là một động vật hữu nhũ.
Hơn thế nữa, quan niệm thẩm mỹ và tính dục đổi thay rất nhiều, theo thời đại,
theo địa phương. Có nơi coi khuôn mặt là quan trọng, vùng khác lại để ý đến cặp
đùi, bàn tay, vòng eo, cổ hay vai. Sự khác biệt về quan niệm đưa đến những dị
biệt về văn hóa, cách ứng xử, đối đãi của mỗi dân tộc. Nơi này che đậy thì nơi
khác lại phô bày. Cái cấm kỵ ở khu vực này không hẳn đã quan trọng đối với địa
phương khác.
Ngay tại Việt Nam, tại nhiều vùng quê miền Bắc cách đây không lâu cũng
không coi việc lõa thể là cấm kỵ. Trong một số Hoài Bão Quê Hương của hội cựu
SVQGHC gần đây, một cựu sinh viên đã kể rằng khi ông đi dạy học tại một vùng
quê miền Bắc, học trò (đã trưởng thành) khỏa thân đứng tắm một cách bình thản
và ngạc nhiên khi thấy ông thầy của mình tắm mà lại mặc quần. Trong bài này,
chúng tôi đề cập đến một quan niệm về thẩm mỹ và tính dục rất khác biệt với
chúng ta và đã ảnh hưởng đến nhiều biến chuyển lịch sử, trực tiếp hay gián tiếp.
Ở bên Tàu, suốt trong hơn một nghìn năm – mãi tới sau thời Dân Quốc mới
thôi – lại coi bàn chân phụ nữ là nơi kín đáo và gợi dục nhất trên cơ thể. Một
người đàn ông khi đã nắm được chân người đàn bà là coi như hoàn toàn chinh phục
và một người đàn bà cho người đàn ông coi bàn chân là đã sẵn sàng hiến dâng tất
cả những gì còn lại. Cái cấm kỵ đó quan trọng đến nỗi ngay trong những bức
tranh thuộc về Xuân Cung Ðồ (tranh vẽ trai gái ái ân), người đàn bà cũng không
mấy khi để lộ hai bàn chân cho dù hoàn toàn lõa thể. Quan niệm về tính dục đã
biến thái để trở thành một phong tục tàn ác là tục dùng băng vải bó bàn chân
cho nhỏ lại mà cho tới ngày nay vẫn không hiếm những nhà trí thức Trung Hoa bị
ám ảnh bởi quan niệm đó.
Trong truyện Ỷ Thiên Ðồ Long Ký của Kim Dung, Trương Vô Kỵ cù gan bàn
chân Triệu Mẫn trong một hầm tối để bức bách nàng thả chàng ra. Thế nhưng,
ngoài ý nghĩa cụ thể của câu chuyện, còn một nghĩa bóng là một khi cho đàn ông
nắm chân, người đàn bà coi như đã thất thân với nam nhân. Từ đó tình yêu nảy nở
và cũng là cái động lực khiến nàng Quận Chúa phải bỏ cha, bỏ anh để đi theo một
tên “đại ma đầu”, kẻ thù của triều đình và của chính dân tộc Mông Cổ.
*
* *
Một điều lạ là nhiều
học giả Trung Hoa lại lên tiếng bênh vực, coi như đó là một nét đặc thù hơn là
một thái độ áp bức. Lâm Ngữ Ðường cho là việc bó chân cũng không khác gì tục lệ
thắt eo của Tây Phương thời Trung Cổ, vũ ballet trên đầu ngón chân hay mốt đi
giày cao gót hiện đại, vì bản chất của tục lệ này là mỹ thuật và tính dục, hình
thái tự nhiên mà đàn bà muốn được đàn ông chiều chuộng và tán thưởng. Ông còn đi xa hơn để biện minh rằng bó chân
tuy có đau nhưng cũng không đến nỗi ngất xỉu như người Tây Phương thắt lưng
ong.[2]
Lý Lạp Ông thì nhận
định là ba tấc sen vàng (tức bàn chân nhỏ do tục bó chân) đặt trên mặt đất tính
ra diện tích đế và trọng lực cũng không khác gì hơn một đôi chân bình thường đi
giày cao gót của phụ nữ tân thời.
Tôi
đã quan sát một đôi chân ba tấc nếu không đi giày cao gót và một đôi chân bốn,
năm tấc đi giày cao gót nếu đứng trên cùng một địa điểm, thì chân ba tấc xem ra
còn lớn hơn chân bốn, năm tấc.
Tục lệ này đã trở
nên lỗi thời từ khi chế độ Dân Quốc được thành lập và đến khoảng thập niên ba
mươi thì không còn ai theo nữa. Tuy nhiên trong suốt một ngàn năm, cái quan niệm
mà người ta cho là đẹp ấy đã dày vò hàng trăm triệu người từ khi còn là một đứa
trẻ thơ ba bốn tuổi kéo dài đến suốt cuộc đời. Ðó là chưa kể không biết bao
nhiêu người không chịu nổi đau đớn và nhiều nỗi thống khổ có trực tiếp hay gián
tiếp liên quan đến việc bó chân. John King Fairbank, một học giả lỗi lạc chuyên
về Trung Hoa (mới mất không lâu) cho biết là trong thời gian gia đình ông sống ở
Bắc kinh đầu thập niên 1930, việc đàn bà bó chân là một trong ba hiện tượng đặc
thù của nước Tàu. [3] Những nhà truyền giáo ước
tính khoảng 10% nữ nhi yểu vong vì không chịu nổi đau đớn hay bị các chứng bệnh
liên quan đến việc bó chân mà chết.[4] Cái đau đớn thân thể chỉ là
một trong những hậu quả của tục lệ kỳ quái này vì còn nhiều ảnh hưởng tâm lý,
xã hội khác chưa mấy ai để tâm tới, nhất là ảnh hưởng kinh tế và sản xuất khi một
phần lớn dân số bị hạn chế năng lực để trở thành những ký sinh hoàn toàn lệ thuộc
vào người khác. Tuy có một số học giả chống đối tục lệ này, phần lớn vẫn chấp
nhận, lắm khi còn biện hộ như chúng ta đã thấy, hoặc lặng thinh không đề cập tới.
Thành thử, nhìn lại lịch sử Trung Hoa trong vài trăm năm qua, những nỗi nhục nhã
của dân tộc này có ít nhiều liên quan đến những hủ tục, mà tục bó chân là một.
Người Tàu đã coi những
dân tộc khác không biết làm cho chân nhỏ lại là những dân tộc kém văn minh,
cũng như người mình trước đây chê cười ai không nhuộm răng là “răng trắng như răng bò”. Thật đúng là “cái đẹp của con cóc đực là con cóc cái”.
LỊCH SỬ
Theo sử sách Trung
Hoa thì đời xưa đàn bà mang giày có mũi nhọn là vì đôi giày được coi như một loại
vũ khí tự vệ. Trên những bích họa tại đền chùa, các sách Chu Lễ, Sử Ký, Hán Thư
đều có dấu tích của giày mũi nhọn (lợi lý - 利履). Từ đời Tần Hán trở về sau, vì đàn ông ưa
chuộng nữ nhân yểu điệu, thanh tú nên thiên hạ đều coi mình hạc xương mai là đẹp.
Nhạc Phủ - 樂府 (thơ của vợ Tiêu Trọng Khanh - 焦仲卿 đời Hán) có câu: Tiêm tiêm tác tế bộ, Tinh diệu thế vô song[5](Uyển
chuyển đi những bước chân nhỏ nhắn, quả thực thế gian không có gì dịu dàng bằng)
cho thấy là đời xưa người ta chuộng đàn bà mảnh khảnh.
Còn về hai chữ “sen vàng” (kim liên - 金蓮) thì đầu
tiên do Ðông Hôn Hầu (東昏侯) ở Nam Tề (南齊) khi mô tả bước chân của Phan Phi là “mỗi bước đi lại thành ra một đóa sen vàng”. Thế nhưng từ việc chuộng
bàn chân nhỏ nhắn một cách tự nhiên biến thành tục bó chân thì sử sách cho rằng
chỉ bắt đầu từ đời Nam Ðường Lý Hậu Chủ (Lý Dục - 李煜). Trong
nghiên cứu về giày và vớ của phụ nữ (Phụ Nữ Hài Miệt Khảo) [6],
Dư Hoài (余懷) chép là: Hậu Chủ có người cung
phi tên là Yểu Nương (窅娘), người xinh đẹp thanh tú, giỏi
việc ca múa. Hậu Chủ cho làm những đóa sen vàng cao sáu thước, treo những đồ
quí giá, buộc dải lụa để cho nàng dùng vải bó chân, múa trên những bông hoa
trông chẳng khác gì múa trên mây. Nhiều người bắt chước sau thành tục bó chân.
Tục bó chân từ trong
cung cấm sau truyền ra ngoài, trước tiên là ca kỹ, vũ nữ, rồi đến cả những khuê
nữ con các đại gia dần dần lan rộng khắp dân gian. Ðến đời nhà Minh, sách “Khuê
Môn Nữ Nhi Kinh” (閨門女兒經) coi việc bó chân là một trong những điều răn dạy con gái. Nữ Nhi
Kinh viết là: Quan trọng là việc bó chân
cho con, chẳng những cong cong đẹp như cánh cung, lại không lo chạy rong ra
ngoài ngõ, chẳng cần phải lấy dây mới buộc được. Việc bó chân từ đó được
coi như một tập tục không thể không có cho một cô gái con nhà đứng đắn.
HÌNH DÁNG
Bàn chân bó nhìn
ngang trông giống như hình chiếc cung nên vì thế còn gọi là “cung túc” (弓足), dân
gian gọi là chân nhỏ còn kẻ văn nhân thì gọi là “đóa sen vàng” (kim liên). Theo truyền thống, bàn chân phải nhỏ chừng
ba tấc - tức khoảng 12 phân tây - là vừa nhưng càng nhỏ thì càng đẹp. Bàn chân
chỉ chừa ngón cái, khum khum cong lên, mu bàn chân gồ lên vì những ngón chân bị
kéo lại, có tên là “lang đầu” (榔頭 - núm
cau). Ngón chân quặp vào dưới lòng bàn chân, biến thành như hình cái trứng nên
gọi là “áp đản lựu” (鴨蛋瘤). Nếu
nhìn từ dưới gan bàn chân thì thấy bàn chân có hình tam giác, gót chân tròn, phải
chịu sức nặng của toàn thân vì phần đầu hoàn toàn tàn phế không còn sử dụng được
đụng đến sẽ đau nhói. Mỗi khi đi đầu người đàn bà phải hoàn toàn đi bằng gót
chân và người phải đứng thẳng, mông ưỡn về phía sau, không có thể uyển chuyển
được, gót chân chạm đất nặng nề, khó nhọc. Mỗi bước chỉ đi được chừng ba, bốn tấc,
cũng không đứng yên được mà chốc chốc phải đi tới hay lui một vài bước, nghiêng
ngả cho đỡ đau, nếu không có người nâng thì sẽ ngã khuỵu xuống. Tây Sương Ký đã
mô tả là “mỗi bước đi đều khiến người ta
thương cảm, như cành liễu rủ trước gió”.
Thoạt đầu khi mới có
tục bó chân thường khởi sự khi còn là một thiếu nữ trẻ tuổi, người ta dùng vải
quấn chặt nên chân thường sưng lên, rất đau đớn. Khi đó chân cũng đã lớn, khó
có ai bóp lại cho nhỏ để thành một bàn chân ba tấc được. Về sau, khi tập tục
này đã phổ biến, người mẹ bó chân cho con ngay từ khi còn nhỏ, và chia thành
hai loại, bó sớm và bó trễ.
Bó sớm, còn gọi là
bó chậm (mạn khỏa - 慢裹) thường là tại những gia đình giàu có, ngay từ ba, bốn tuổi. Người mẹ
lấy vải quấn các ngón chân và đi giày chặt cho con hằng đêm, càng lớn lên càng
thắt cho chặt thêm, thân thể có tăng trưởng nhưng bàn chân thì giữ nguyên. Trừ
ngón chân cái, những ngón khác dần dần quặp vào lòng bàn chân, hay bị thoái hóa
không lớn mà thun lại bằng hạt đậu. Mu bàn chân không giãn bề ngang nên u lên,
khiến cả bàn chân thuôn thuôn như hình trái cau (lang đầu), tổng cộng không quá
ba tấc (khoảng 12 phân tây). Loại chân nhỏ này được gọi là Dương Châu cước, bó
từ khoảng bốn tuổi đến năm tám tuổi thì hoàn tất. Những cô gái bị bó chân quá sớm
thường không phát triển bình thường, hay quặt quẹo đau yếu luôn, và thường chết
yểu. Nếu có thọ thì dung mạo cũng rầu rĩ, không tươi vui.
Bó gấp, hay bó nhanh (cấp triền 急纏 hay
khoái khỏa 快裹) thường là con nhà nghèo, phải làm việc, cha mẹ cũng không có thì giờ
bó chân cho con từ nhỏ, nên mãi tới tám, chín tuổi, có khi mười bốn, mười lăm
không chừng mới bắt đầu bó chân. Theo cách này, người ta chọn ngày lành, tháng
tốt (?), mẹ không nỡ bó chân con nên thường nhờ những bà già có kinh nghiệm, rồi
người lớn xúm vào giữ chặt đứa nhỏ, rồi người ta thật nhanh nhẹn bẻ gẫy bốn
ngón cho gập vào lòng bàn chân. Sau đó dùng dây vải quấn chặt, kéo xuống gót
chân xiết lại. Tiếp theo, người ta sẽ uốn cho mu bàn chân cong lên thành hình
chữ kỷ, chẳng khác gì uốn một thân cây. Công việc này chỉ làm một lần là xong
và cứ để như vậy chứ không uốn từ từ như cách thứ nhất. Cứ hai ba ngày người ta
lại tháo băng ra, dùng nước nóng rửa sạch máu mủ , rắc hương liên tán (một loại
thuốc bột để bớt mùi hôi) rồi lại quấn chặt. Thời gian từ lúc bắt đầu cho tới
khi bàn chân biến dạng không còn hồi phục được nữa khoảng ba tháng, các vết
thương cũng liền da nhưng phải khoảng nửa năm sau thì đứa trẻ mới được đi lại.
Tuy thời gian có ngắn hơn nhưng phương pháp này làm cho nạn nhân đau đớn hơn
nhiều. Vì bó chân khi đứa trẻ đã khá lớn nên cũng ít trường hợp bị chết yểu và
sau này vẫn còn làm được công việc nặng nhọc. Phụ nữ vùng Thiểm Tây, Sơn Ðông
áp dụng cách này và vẫn còn có thể mang vác nặng vượt qua núi, có người còn luyện
võ. Thế nhưng khuyết điểm là "lang đầu" quá lớn, mu bàn chân không
tròn trịa vì dấu gãy xương vẫn còn nên không được ưa chuộng như cách thứ nhất.
Bàn chân cũng chỉ có thể giữ được khoảng 4, 5 tấc thứ không thể nào đạt mức lý
tưởng là 3 tấc sen vàng. Cách này cũng làm cho nạn nhân bị đau nhức nhiều hơn
khi về già, nhất là những ngày âm u.
Khi đã bó chân rồi,
muốn cho giữ nguyên hình trạng, người đàn bà Trung Hoa không chỉ dùng những đôi
giày được chế tạo riêng cho họ mà phải có thêm một số phương tiện phụ thuộc. Ðể
giữ cho bàn chân không trở lại hay biến dạng, họ phải dùng một mảnh vải dài chừng
sáu thước, bề ngang khoảng hai tấc, màu xanh đậm để quấn chân. Màu xanh là màu
để cho vết máu khỏi hiện rõ. Chỉ khi đã về già, chân không còn chảy máu mới
dùng màu trắng. Mỗi người tối thiểu phải có khoảng ba sợi như thế hầu giặt giũ,
thay đổi hàng ngày. Bên ngoài lớp vải bó là các loại vớ rồi ngoài cùng mới đến
giày. Ðôi giày có tên là cung hài vì hình tượng của lớp đáy trông giống hình
cánh cung. Giày có nhiều loại, hình dáng, phẩm chất khác nhau nhưng nói chung
thì có những loại sau đây:
1. Tú hài (繡鞋): là loại
giày thêu thùa rất mỹ thuật, kỹ lưỡng thường dùng cho con gái trong lễ cưới hay
để phụ nữ mang khi có khách đến thăm, có loại gọi là “mã khẩu tuyến hài” (馬口線鞋) hoặc “nguyệt
lượng môn hài” (月亮門鞋) thường thêu hoa, thêu hình ngọc như ý. Mũi giày nhọn như mỏ chim, có
đính những hạt ngọc trai, tú cầu hoặc thêu hình nhụy hoa. Ðế giày cứng thường
là bằng gỗ nhưng gót mềm lót bằng nhiều lớp vải. Bên trong gót giày có một mảnh
gỗ hình giống như chiếc mũ đạo sĩ nên còn được gọi là “đạo sĩ quan” (道士冠). Loại giày này để hết trọng lực vào gót chân, ngón chân không bị tì
vào đất nên ít đau.
2. Tiện hài (便鞋): là loại giày thường dùng hàng ngày (tiện là tiện lợi) bằng vải, đế
mềm, có loại thêu hoa, có loại chỉ để trần.
3. Thụy hài (睡鞋): là loại giày đàn bà mang khi đi ngủ để ngừa chân nếu để không sẽ
giãn ra nên gọi là giày ngủ (thụy hài). Giày ngủ chỉ có một lớp vải ít khi thêu
thùa trang sức, hình dáng cũng gần như tiện hài.
Ngoài giày vớ, người
đàn bà Tàu còn dùng một số dụng cụ phụ thuộc để độn chân và trợ giúp khi di
chuyển, khi đi trời mưa …
CÁC KIỂU CHÂN
Người Trung Hoa môn
gì cũng thích phân biệt chi li. Ðối với đôi chân của người đàn bà họ lại càng vẽ
vời. Bàn chân bó được chia làm ba loại, thượng trung hạ, mỗi loại lại chia làm
ba cấp, có tên như sau: thần phẩm, diệu phẩm, tiên phẩm (thượng), trân phẩm,
thanh phẩm, diễm phẩm (trung) và dật phẩm, phàm phẩm, ưng phẩm (hạ). Sau đây
chúng tôi chỉ mô tả một vài loại chính:
1. Hồng
lăng cước (紅菱腳): hình củ ấu, đầu chân thuôn nhọn là loại tiêu chuẩn và được ưa chuộng
nhất.
2. Tống tử
cước (粽子腳): hình cái bánh giò (loại bánh có bốn góc) nhưng mu bàn chân thuôn đuột,
không gồ lên hình chữ kỷ, kém loại trên một bực.
3. Man ngư
cước (鰻魚腳): đầu chân không được nhọn, hình bầu bầu giống hình con cá sộp, kém một
bực nữa.
4. Văn minh
cước (文明腳): là loại về sau cuối thời Mãn Thanh đặt tên cho những người trước bó
chân sau cởi ra không tiếp tục nữa. Còn có tên là bán lãm cước (hình nửa cái giỏ),
ngón chân quặp vào, đầu chân uốn về phía sau.
5. Quải tử
cước (拐子腳): lúc bó chân cũng làm nhanh rồi sau lại cởi ra nên hình dạng méo mó,
hình xấu xí, khiến chân đi như người què.
6. Ðoàn mộc
cước (段木腳): cũng thuộc loại chân trước bó sau cởi ra, ngón chân ruỗi ra được
nhưng mu bàn chân bị gãy, nên có tên là chân hình khúc củi.
Ngoài ra còn phải kể
đến một loại chân bó giả, làm bằng gỗ đẽo như hình chân phụ nữ, là của phường
tuồng nam giả nữ (đích thực là một loại cà khêu ngắn để họ đi).
BÀN CHÂN VÀ TÍNH DỤC
Người Trung Hoa coi
bàn chân của phụ nữ là bộ phận tối gợi cảm và kín đáo, là biểu trưng của nữ
tính và là vùng khích động nam nhân nhiều hơn cả. Nhiều bức tranh trong xuân
cung thư hay phòng trung thuật mô tả người đàn bà hoàn toàn lõa thể nhưng hai
bàn chân vẫn bó. Bàn chân không những là nơi kín đáo mà còn là vùng cấm kỵ nữa.
Cùng lắm nghệ nhân chỉ vẽ đến người đàn bà đang tháo băng chân. Bàn chân còn là
nơi gợi cảm và việc vuốt ve, hôn hít bàn chân là những động tác tiền giao hoan.
Khi một nam nhân được
làm quen với một thiếu nữ, được mời ăn thường giả vờ để rơi đũa, hay rơi khăn rồi
nhân dịp đó đụng vào bàn chân người đối tượng. Ðó là cách để thử xem ý trung
nhân có thuận tình chăng. Người đàn ông có thể vô tình đụng vào mông, vào ngực
người đàn bà nhưng việc đụng vào chân không thể xem là một hành vi sơ xuất.
Không hiểu vô tình hay cố ý, cũng rất có thể là một ám thị của người Tàu, Kim
Dung đã nhiều lần cho một thanh niên đụng vào chân một thiếu nữ như một tiền đề
khởi đầu một cuộc tình, điển hình là đoạn Trương Vô Kỵ “cù” gan bàn chân Triệu Mẫn trong hầm tối và Ðoàn Dự cầm chân Chung
Linh sau đây:
Chàng nắm
lấy bàn chân trái nàng, lột luôn giày vớ ra. Triệu Mẫn vừa giận vừa sợ, kêu
lên:
-
Xú tiểu tử, ngươi
làm gì thế?
Trương
Vô Kỵ không trả lời, lại lột luôn giày vớ chân phải, giơ ngón tay trỏ điểm vào
huyệt Dũng Tuyền dưới gan bàn chân, vận Cửu Dương thần công lên, một luồng khí ấm
liền theo ngón tay truyền vào.
Huyệt
Dũng Tuyền ở chỗ lõm dưới lòng bàn chân khởi đầu của Túc Thiếu Âm Thận Kinh, là
nơi nhạy cảm hơn cả. Trương Vô Kỵ tinh thông y lý biết rõ như thế. Trẻ con chơi
đùa thường lấy tay cù vào gan bàn chân sẽ làm cho đối phương tê cả người, lúc
này chàng dùng khí nóng của Cửu Dương thần công mơn man huyệt Dũng Tuyền, so với
lấy lông chim hay tóc cọ xát vào còn khó chịu gấp bội. Chỉ mới cù mấy cái, Triệu
Mẫn nhịn không nổi phải cười lên khanh khách, toan rút chân về để tránh nhưng
khổ nỗi huyệt đạo đã bị điểm làm sao cử động gì được? Nỗi khổ đó còn khó chịu
hơn dùng dao cắt, dùng roi đánh, chẳng khác gì muôn ngàn con rận cùng thi nhau
cắn ngũ tạng lục phủ, cốt tủy huyết quản một lượt, khiến nàng chỉ cười được mấy
tiếng rồi chịu không nổi khóc òa lên.
Trương
Vô Kỵ mặc kệ tiếp tục tra tấn. Trái tim Triệu Mẫn dường như muốn nhảy khỏi lồng
ngực ra ngoài, các chân lông chân tóc toàn thân ngứa không chịu nổi như muốn rụng
hết, mở miệng mắng chửi:
-
Tên thối tha... tên
giặc con... sẽ có ngày ta đem ngươi ra... lăng trì tùng xẻo... thôi... thôi...
tha... tha cho tôi... Trương... Trương giáo chủ... Trương công tử... Trương
giáo... giáo chủ... hu hu... hu hu...
Trương
Vô Kỵ hỏi:
-
Cô đã chịu thả tôi
ra chưa?
Triệu Mẫn
khóc nói:
-
Ðể tôi... thả... mau
ngừng... ngừng tay...
Trương
Vô Kỵ bấy giờ mới ngưng lại nói:
-
Xin lỗi nhé.
Chàng nắn
mấy cái vào lưng giải khai huyệt đạo cho nàng. Triệu Mẫn thở phào một hơi, mắng:
-
Tặc tiểu tử, đi vớ xỏ
giày vào cho ta.
Trương
Vô Kỵ cầm chiếc vớ lụa, một tay cầm chân nàng. Khi trước chàng chỉ chăm chăm lo
thoát thân, không có ý gì khác, lúc này cầm bàn chân nhỏ nhắn mềm mại của cô
gái, trong lòng không khỏi lâng lâng. Triệu Mẫn thẹn thùng rụt chân về, mặt đỏ
bừng, cũng may là trong hầm tối đen nên Trương Vô Kỵ không nhìn thấy, nàng chẳng
nói chẳng rằng tự mình đi vớ xỏ giày, trong chỉ một giây bỗng thấy lòng nổi lên
một cảm giác lạ kỳ, tưởng như lại mong được chàng cầm chân mình lần nữa. (Ỷ
Thiên Ðồ Long Ký, chương 23, bản dịch
Nguyễn Duy Chính)
Và đây là đoạn Ðoàn
Dự nắm chân Chung Linh:
Ðoàn
Dự gật đầu, cúi xuống tháo đôi giày của nàng ra, tay trái giở gót chân, thấy
bàn chân nàng nhỏ nhắn vừa cầm tới đã thấy trong lòng rung động, ngửng đầu nhìn
lên, hai người nhìn nhau mỉm cười. Trong ánh lửa bập bùng, Ðoàn Dự thấy khuôn mặt
nàng rạng rỡ tuy trên má có điểm mấy giọt lệ nhưng ánh mắt đầy vẻ vui tươi, khiến
chàng như ngây như dại.
Tư Không
Huyền thấy thế vội giục giã:
-
Thôi đi mau, đi mau,
hai cô cậu tôi nhìn anh, anh nhìn tôi biết đến bao giờ? Ðoàn huynh đệ, ngươi
mau đi mời người tới đây, ta sẽ thả cô bé này cho ngươi lấy làm vợ. Sau này
ngày rộng tháng dài, ngươi muốn sờ chân nàng lúc nào chẳng được.
Ðoàn Dự
và Chung Linh hai người mặt đỏ bừng, chàng vội cởi đôi giày hoa dưới chân cô
gái bỏ luôn vào túi, nhịn không nổi lại liếc Chung Linh một cái. Chung Linh
khúc khích bật cười. (Thiên Long Bát Bộ, chương 1, bản dịch Nguyễn Duy Chính)
Ngay cả khi Trương
vô Kỵ nhìn thấy bàn chân Triệu Mẫn đong đưa, anh chàng cũng thấy rạo rực:
Chàng
nhìn lên trên, thấy trên một cái đôn thấp bọc gấm có một đôi bàn chân mang giày
đoạn màu vàng nhạt, đầu giày có đính một hạt minh châu. Trương Vô Kỵ chợt rung
động trong lòng, thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn xinh xắn, mắt cá chân tròn trịa, dường
như quen quen, chính là đôi bàn chân mà chàng đã nắm được lúc ở Lục Liễu Trang
của Triệu Mẫn. Khi chàng gặp lại cô ta trên núi Võ Ðương, hai bên là kẻ thù
nhưng lúc này nhìn thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn đó, không hiểu vì sao, tự nhiên đỏ
mặt tía tai, tim đập thình thịch. (Ỷ
Thiên Ðồ Long Ký, chương 26, bản dịch
Nguyễn Duy Chính)
Một số tác giả Trung
Hoa cho rằng việc bó chân có ảnh hưởng đến việc phát triển bộ phận sinh thực
khí của người đàn bà, nhất là gò âm môn (mons veneris) và phản xạ co thắt của
âm đạo. Cô Hồng Minh[7] (辜鴻銘)
(1857-1928), một học giả cận đại còn khẳng định là người đàn bà nào bàn chân
càng nhỏ thì những nếp gấp của âm thần càng kỳ diệu. Người ta giải thích là vì
bị bó chân, người đàn bà Trung Hoa đi lại khó khăn nên âm đạo bị thắt lại, cũng
giống như người ta tập co thắt các cơ vòng của bộ phận sinh dục sau khi sinh nở.
Tuy nhiên, những nghiên cứu y học tân tiến đã hoàn toàn phủ nhận giả thuyết này
và cho đó chỉ là sự tưởng tượng của người Tàu. Một số khác thì lại cho rằng việc
bó chân là một hậu quả của lễ giáo, muốn giới hạn việc di chuyển của phụ nữ, và
cũng chứng tỏ vai trò thấp kém của nữ giới trong xã hội phong kiến và là một hậu
quả của văn hóa Khổng Mạnh.
Ðời Thanh, một danh
sĩ còn viết một thiên khảo luận ca tụng Kim Liên Tứ Mỹ bao gồm hình, chất, tư,
thần (形質姿神) bốn đặc tính. Ðẹp về hình dáng gồm có tiêm, nhuệ, sưu, loan, bình,
chính, viên, trực, đoản, trách, bạc, kiều. Ðẹp về chất gồm có quân, chỉnh, khiết,
bạch, nộn, nhuận, ôn, nhuyễn, hương. Ðẹp về tư thế gồm có kiều, xảo, mị, tiếu,
đình, chiết, tiệp, ổn. Ðẹp về thần gồm có u, văn, siêu, nhã, nhàn, vận, tú.[8]
Việc che đậy và sùng
bái bàn chân (foot fetish) không phải chỉ có ở Trung Hoa mà xuất hiện tại nhiều
dân tộc – chẳng hạn như người phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ và người Mông Cổ vùng Siberia,
có thể cởi trần những ngày nóng, nhưng lại không phô bày đôi bàn chân cho ai
ngoại trừ người chồng. Thế nhưng việc coi bàn chân là một biểu tượng tính dục
là một cảm nhận đặc thù của người Tàu và họ cho rằng người nước ngoài không thể
nào hưởng được cái khoái cảm đó nếu không ý thức được như họ. Nhiều giáo sĩ đã
nghe con chiên xưng tội là “trong lòng rậy
lên ý nghĩ đen tối khi nhìn vào bàn chân người đàn bà”. [9] Cũng nên biết thêm là tại
Trung Hoa, chỉ có người khách gia (hakka, tức người Hẹ) là dân tộc duy nhất chống
lại và không theo tục lệ này. Người khách gia là một dân tộc di cư từ miền bắc
xuống vào khoảng thế kỳ XI đến thế kỷ XIII, sản sinh ra nhiều nhân tài kiệt hiệt,
có đầu óc cải cách, độc lập mà hiện nay chúng ta có thể kể như Ðặng Tiểu Bình,
Lý Quang Diệu, Lý Ðăng Huy, Lý Bằng, Vương Vĩnh Khánh …
Trong những kỹ viện
và chốn ăn chơi, việc dùng những đôi hài của kỹ nữ làm trò đánh đố, làm ly đựng
rượu, và làm vật trợ hứng cho nam nhân thường xảy ra. Lý Lạp Ông (李笠翁) đời
Thanh đưa ra 48 cách đàn ông dùng bàn chân phụ nữ để tìm vui trong đó đủ cả ngũ
giác (28 cách dùng tay, 6 cách dùng miệng, 4 cách dùng chân, 2 cách dùng vai, 4
cách dùng thân thể). [10]
Khi tìm cách giải
thích hoặc biện minh cho tục bó chân, nhiều tác giả đã lý luận rằng người Trung
Hoa rất thích dùng biểu tượng, dùng một vật này để chỉ một ý nghĩa khác. Việc
chúc tụng chẳng hạn, người ta dùng con dơi (biển bức) để thay cho chữ phúc (âm
tương đồng giữa bức 蝠 và phúc 福), dùng trái đào tượng trưng cho sự trường thọ (ăn đào sống lâu theo
truyền thuyết bàn đào của bà Tây Vương Mẫu), hay trái lựu để mong đông con trai
(đa tử, lắm hột) … Người Tàu lại hay kiêng cữ những điềm gở, dù rằng đôi khi rất
mơ hồ. Số nhà, số xe họ kỵ số bốn (tứ, đồng âm với tử là chết). Cách đây không
lâu, báo chí đã đăng tải một bệnh viện ở Los Angeles bán không được vì có số
nhà đọc lên nghe như bốn chữ “thập tử nhất sinh” (1413). Thời cổ, những tiếng
kim liên (sen vàng), tân nguyệt (trăng non), kim hoa (hoa vàng) ... dùng để chỉ
bộ phận sinh thực của nữ giới (chữ liên đồng âm với chữ lân hay liên là đáng
yêu, đáng thương), cũng như con cá tượng trưng cho dương cụ của nam giới. Thành
thử một bức tranh vẽ cá đùa giỡn một bông hoa sen còn có ý nghĩa nam nữ hợp
hoan. Cho nên bốn chữ “ba tấc sen vàng (tam thốn kim liên)” có ý nghĩa ẩn dụ,
cũng như khi nghiên cứu diện tướng, nhiều người cho rằng mũi (đàn ông) và miệng
(phụ nữ) với tính dục có tương quan.
Vì thế khi uốn bàn
chân cho thành hình tam giác hay gọi là đóa sen vàng, người Trung Hoa muốn ám
chỉ sự liên quan giữa bàn chân và bộ phận sinh thực khí. Cũng có thể đó chỉ là
một cách giải thích vì người ta hay thêm thắt cho li kỳ, đặt ra một số huyền
thoại để cắt nghĩa một việc mà chính họ cũng không hiểu rõ.
CUỘC CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ
Không phải người
Trung Hoa không có ý thức về vai trò và ảnh hưởng của tục bó chân đối với văn
hóa, chính trị, kinh tế nước Tàu. Chính một nho sĩ đời Minh đã đưa ra một “quốc
sách” là dạy cho những dân tộc Hung Nô phương Bắc tục bó chân để cho họ bị mê mệt
về đóa sen vàng của chính họ mà khỏi xâm lăng nước Tàu. Tuy nhiên, trong lịch sử
cũng không hiếm người phản kháng lại tục lệ kỳ quái này, nhất là đời Thanh.
Chính triều đình cũng nghiêm cấm việc bó chân. Vào Thuận Trị (順治) nguyên
niên, Hiếu Trang (孝莊) hoàng hậu ra lệnh chém đầu những thiếu nữ nào bó chân, không cho nhập
cung, năm thứ hai lại ra lệnh mọi người dân không được bó chân cho con. Tới
Khang Hi nguyên niên, nhà vua lại ra một đạo dụ khác cấm nữa, nếu ai vi phạm
thì cha mẹ và gia trưởng đều bị tội. Năm Ðạo Quang 18, triều đình lại ra lệnh cấm
chỉ một lần nữa. Từ Hi thái hậu cũng hạ chỉ “Mãn Hán có thể lấy nhau, cấm phụ nữ bó chân”. [11] Năm Quang Tự 20, tổng đốc Tứ
Xuyên cũng phổ biến một đạo dụ có tên là “Khuyến
Giới Triền Túc Dụ” (勸戒纏足諭).
Tuy nhiên, dân chúng
vẫn lén lút bó chân cho con và tìm cách ẩn lậu. Có người cho rằng đó cũng là một
hình thức phản kháng tiêu cực của người Hán chống lại người Mãn Thanh. Công
khai vận động chống đối thì có năm người:
Lý Nhữ Trân (李汝珍) đời
Gia Khánh viết Kính Hoa Duyên (鏡花緣), chủ trương nam nữ bình đẳng, coi việc bó chân là một thảm hình
không gì ác độc hơn.
Cung Tự Trân (龔自珍) đỗ tiến
sĩ đời Ðạo Quang làm thơ chống đối việc bó chân, ca tụng việc lấy được vợ có
bàn chân bình thường.
Hồng Tú Toàn (洪秀全) là
lãnh tụ Thái Bình Thiên Quốc xưng đế ở miền Nam Trung Hoa, tuyên bố nam nữ bình
đẳng, đàn bà cũng được đi thi. Khi kéo quân đến Giang Ninh liền ra lệnh cho dân
chúng không được bó chân, ai vi lệnh sẽ bị chém đầu. Từ đó về sau nhân dân vùng
Quế Việt hơn một nửa không còn theo hủ tục này nữa.
Tây Côn Hùng Tử (西昆熊子),
người đất Thục đời Ðồng Trị viết cuốn Lạc Thế (樂世) tổng cộng 130,000 chữ cũng bài xích tục bó
chân, mà chính gia đình ông tự làm trước. Ba người con gái của ông đều không
theo tục này.
Trịnh Quan Ứng (鄭觀應) người
đất Quang Thời viết cuốn Thịnh Thế Nguy Phương (盛世危方), đả kích những hủ tục và hô hào duy tân.
Trong thiên Nữ Giáo (女教篇) ông viết: “Trên khắp năm châu
không dân tộc nào như Trung Quốc. Phàm đã là cha mẹ ai cũng thương con, vậy mà
trẻ mới 4, 5 tuổi cho chí 7, 8 tuổi lại đem ra hành hạ áp bức coi đó làm vui.
Thật khốn khổ cho người nào sinh ra làm phận nữ nhi Trung Quốc.”
Sau cuộc chiến tranh
Trung Nhật, phong trào cải cách ngày càng lan rộng, việc vận động để chân tự
nhiên[12] ngày càng lên cao. Năm
Quang Tự thứ 22, Khang Hữu Vi (康有為) sáng lập hội không bó chân ở Quảng Châu, vừa mới đầu đã có hàng vạn
hội viên. Năm Quang Tự thứ 23, Lương Khải Siêu (梁啟超) viết Biến
Pháp Thông Luận (變法通論) trong chương Luận Nữ Học (論女學) có một
đoạn viết là : “Hủy thân thể người khác,
làm cho người khác máu đổ thịt rơi để thỏa mãn cái thích của mình, sao gọi là học?
Còn bó chân một ngày thì việc nữ học chưa có thể thành được. Sức của một ông
vua (nói về việc vua Khang Hi ra lệnh cấm bó chân) không thể thay đổi cái mù
quáng của số đông dân chúng, cái đầu cứng của kẻ đàn ông, không bằng cái chân của
người phụ nữ yếu đuối.”[13]
Sau đó, nơi nào cũng
có hội để chân tự nhiên (Thiên Túc Hội 天足會), các thành thị lớn lại có Tổng hội, nông
thôn thì có phân hội. Các hội viên tất cả ước định với nhau sẽ không bó chân
con cái mình, và cũng không lấy gái bó chân. Vận động này tới cuối đời Quang Tự
đã lên tới cao điểm. Tới thời Dân quốc, hầu hết các nơi đều không còn hủ tục
này.
KẾT LUẬN
Cho đến bây giờ, tục
bó chân của người Tàu vẫn được nhìn dưới nhiều quan điểm khác nhau. Dù bênh hay
chống, chúng ta cũng thấy là tục lệ này đã ảnh hưởng rất lớn đến dân tộc Trung
Hoa trong một thời gian dài. Ngoài ảnh hưởng xã hội, kinh tế, nó còn mang nhiều
hiện tượng tiêu cực trên cả mặt chính trị. Tuy nhiên, xét tục bó chân của người
Trung Hoa trong một tiến trình lịch sử dài thì người ta thấy rằng thoạt tiên nó
mang ý nghĩa và quan niệm về sắc đẹp, nhưng về sau lại được gán thêm cái nghĩa
văn minh Hán tộc, dùng để biện biệt với các dân tộc man di, mọi rợ khác không
có tục này. Ðến thời nhà Thanh, tục bó chân lại còn có một ý nghĩa đối kháng ngấm
ngầm với triều đình, coi đó là một hành vi bất khuất hưng Hán, bài Mãn.
Một
điều đáng để ý là hình như nền văn minh Hán tộc đã khiến cho người ta có máu
“sa đích”, thích chứng kiến hay hưởng thụ những hành vi tàn ác. Phụ nữ đã bị
coi như một món đồ chơi, không được coi như bình đẳng với nam giới. Nhiều trẻ
gái vừa sinh ra đời đã bị bóp mũi hay trấn nước cho chết, và hiện nay, với
chính sách chỉ được phép sinh một đứa con, tục lệ này càng thêm lan rộng. Tỉ lệ
chênh lệch nam nữ ở bên Tàu nay nhiều nơi lên tới 120/100 (120 nam, 100 nữ).
Vào thời xưa, việc mua bán, trao đổi phụ nữ rất phổ thông và nhiều phú gia đã nạp
hàng chục thiếu nữ làm tì thiếp. Họ lại còn có quan niệm cho rằng phá tân một
người con gái là một việc may mắn và nhiều thương nhân đã bỏ tiền mua trinh tiết
để giải hạn hay lấy hên. Thế nhưng, không phải chỉ ở Trung Hoa mà tại nhiều nơi
cũng có những tục lệ xâm phạm đến thân thể người đàn bà, chẳng hạn như tại một
số quốc gia Bắc Phi đến nay vẫn còn duy trì tục cắt âm hạch (clitoridotomy) cho
con gái. Trong suốt một nghìn năm, cái quan niệm về thẩm mỹ và tính dục của người
Tàu đã khiến cho không biết bao nhiêu máu và nước mắt phải âm thầm đổ ra, thật
là một thảm kịch của một dân tộc vốn vẫn coi mình là tâm điểm của thế giới, và
là đỉnh cao của văn minh. Ðể kết luận, chúng tôi lược dịch lời tự thuật của một
phụ nữ Trung Hoa trong tác phẩm Chinese
Footbinding: The History Of A Curious Erotic Custom của Howard L. Levy, một
tác phẩm mà nhiều người cho rằng đây là một Kinsey Report của Trung Hoa (New
York, Walton Book 1966) từ trang 224 đến trang 227:
Tôi ra đời tại một huyện ở miền tây tỉnh Hồ Nam, vào cuối triều Mãn
Thanh. Theo tục lệ, tôi phải bó chân khi lên bảy. Từng chứng kiến nỗi khốn khổ
của những người chị em họ, nên tôi rất sợ. Mùa thu năm đó, thảm họa đã giáng xuống
đầu tôi. Một hôm, mẹ tôi bảo: con đã bảy tuổi rồi, vừa đúng tuổi để bó chân. Ðể
lâu hơn nữa, chân con cứng lại càng đau nhiều. Ðáng ra mẹ đã bó chân cho con từ
mùa xuân nhưng vì con yếu quá nên phải đợi tới bây giờ. Con cái các nhà khác đã
bó chân xong cả rồi. Sáng mai mình bắt đầu nhưng mẹ sẽ làm cho con nhè nhẹ để
con ít đau, vì con gái nhà ai cũng phải qua cái cảnh khổ này.
Sau đó mẹ tôi cho tôi ăn trái cây và cho tôi xem một đôi giày có đầu
nhọn như mỏ phượng, an ủi tôi với những lời: Chỉ có người bó chân mới đi vừa
đôi giày đẹp đẽ này thôi. Nếu không chân con to như chân voi, người ta cười con
và con sẽ xấu hổ lắm.
Tôi thấy yên tâm, và lòng ham muốn được đẹp đẽ khiến tôi cương quyết,
cả đêm không ngủ được.
Sáng hôm sau, khi tôi trở dậy, mẹ tôi đã sẵn sàng mọi thứ. Mẹ tôi để
tôi ngồi trên một cái ghế đẩu ngay cạnh giường. Mẹ tôi xỏ chỉ một cây kim gài
lên tóc tôi, tán một miếng phèn (alum) xếp cùng với vải bó chân và một đôi hài
thêu hoa. Sau đó bà đóng cửa phòng lại. Ðầu tiên mẹ tôi ngâm châm tôi vào nước ấm,
lau sạch, và cắt các móng chân tôi bằng một cái kéo nhỏ. Bà để chân phải tôi
vào hai bàn tay và chà xát theo chiều lòng bàn chân. Bà cũng rắc phèn tán vào
những kẽ ngón. Bà cho tôi cầm một quản bút theo niềm tin là có thế sau này chân
tôi mới thuôn nhọn như ngòi bút.
Bà lấy một giải vài dài chừng một thước tây, ngang độ hai phân rưỡi, nắm
chặt chân tôi bẻ quặt bốn ngón chân nhỏ xuống phía gan bàn chân, cột lại với
nhau rồi quấn từ gót chân lên mu bàn chân, đi trở xuống. Quấn như thế năm vòng
rồi bà lấy chỉ khâu lại. Ðể cho khỏi lỏng, bà nhồi bông vào dưới bàn chân bên đầu
ngón chân.
Chân trái cũng được làm y như thế rồi bà ấn chân tôi vào đôi hài hoa,
vốn dĩ đã hơi nhỏ hơn chân tôi. Ðầu mũi hài được thêu như hình hạt lúa. Một
giây vải đính vào đôi hài buộc xuống gót chân tôi cho khỏi tuột.
Mẹ tôi bảo tôi xuống giường bước đi bảo là nếu không đi thì chân sau
này sẽ thành tật. Chân tôi vừa chạm đất, tôi hầu như tê bại, phải thử mấy lần mới
đi được nhưng những đầu ngón chân đau thật là đau. Ðêm đó hai chân tôi sưng vù
và nóng hừng hực. Ngoài việc tập đi, tôi chỉ ngồi trên giường.
Mỗi tuần mẹ tôi lại bó lại cho tôi một lần, mỗi ngày chặt thêm một
chút khiến tôi càng lúc càng hãi hùng. Tôi lắm khi phải trốn sang hàng xóm để
tránh việc bó chân. Nếu tôi nới lỏng ra, mẹ tôi mắng tôi là không muốn làm đẹp.
Sau khoảng nửa năm, những ngón chân tôi đã quặp vào gan bàn chân và đầu
mũi thêm nhọn dần. Một năm sau ngón chân tôi đã chết hẳn và bắt đầu thối. Những
cục chai cũng đóng và một thời gian lâu chân tôi không thấy khá hơn. Mẹ tôi
tháo băng chân và dùng dao lạng bớt những cục chai và lấy kim khều những nhân
trong đó. Tôi sợ lắm nhưng không dãy được vì mẹ tôi nắm rất chặt.
Năm tôi chín tuổi, cha tôi hứa gả tôi cho một nhà hàng xóm họ Triệu và
tôi phải sang đó hầu hạ việc nhà, tập làm dâu. Mẹ chồng tôi bó chân còn chặt
hơn mẹ tôi, nói là chân tôi chưa đủ tiêu chuẩn. Nếu tôi khóc thì bà ta đánh đập
rất tàn nhẫn và nếu nới ra, thì đánh cho thâm tím khắp người mới thôi. Chân tôi
tương đối có da thịt nên mẹ chồng tôi nói là phải làm cho sưng tấy lên mới có kết
quả. Tôi phải ngâm chân vào một loại thuốc và mỗi lần ngâm xong chân rất đau.
Nhìn xuống tôi thấy các ngón chân, trừ ngón cái, đều sưng húp và bắt đầu rữa. Mỗi
khi tháo băng tôi phải lấy tay dần cho lỏng ra vì băng dính đầy máu mủ. Mỗi lần
lột băng ra, máu lại chảy ròng ròng. Tôi đau thấu tâm can, người run bần bật vì
xúc động.
Mẹ chồng tôi đã không thương lại còn nhét gạch vào để cho chân mau thối.
Tôi khóc lóc bà cũng mặc kệ. Cứ cách một ngày, bà lại quấn lại cho chặt thêm và
giày cũng chật thêm. Cạnh giày cứng và tôi phải ấn mạnh mới cho chân vào được.
Tôi phải đi quanh sân, và ráng sống tuy đau đớn không sao tả xiết. Gia đình tôi
chỉ trung lưu nên tôi vẫn phải kéo nước, giã gạo.
Ðến mùa đông, chân tôi càng đau đớn nhiều. Ðêm đêm tôi cố co chân lên
cho ấm nhưng chỉ càng thêm đau. Khí hậu thay đổi làm một ngón chân tôi bị rụng
và thịt thối đi khiến chân tôi thành nhọn như đọt măng, cong lên như củ ấu. Mu
bàn chân gồ lên còn bốn ngón chân teo lại bằng hạt đậu quặp hẳn vào gan bàn
chân, chỉ cách gót chân một quãng ngắn. Lòng bàn chân hũm vào khiến tôi có thể
xếp vài đồng tiền vẫn còn lọt. Chân tôi chỉ có ba tấc, bà con, bạn bè ai cũng
ngợi khen, không ai biết đến bao nhiêu máu và lệ đã đổ ra để được như thế.
Chồng
tôi vui lắm vì tôi có bàn chân nhỏ nhưng đã qua đời hai năm trước. Của cải phân
tán hết nên ngày nay tôi phải lang thang đi kiếm việc. Tôi thèm muốn được như
người ta không bị bó chân. Nếu tôi sinh muộn độ mươi năm, tôi đã không phải khổ
sở như thế này. Giữa người bó chân với người không thật cách biệt một trời một
vực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---
1) Anh ngữ
-
Chu, Valentin: The Yin-Yang Butterfly. New York: Jeremy P. Tarcher/Putnam Book, 1994
-
Fairbank, John K.: China, A New History. London: The Belknap Press of Harvard
University Press, 1992
-
Huard Pierre, Wong Ming: Oriental Methods of Mental and Physical Fitness: The Complete Book of
Meditation, Kinesitherapy, and Martial Arts in China, India, and Japan
(translated by Donald N. Smith) New York: Funk & Wagnalls, 1977
-
Levy, Howard L.: Chinese Footbinding: The History Of A Curious Erotic Custom. New
York: Walton Book, 1966
-
Lin Yutang: My country and my people. New York: Halcyon House, 1938
-
R.H. Van Gulik: Sexual Life in Ancient China. New York: Barnes & Nobles Books,
1996
-
Seagrave, Sterling: The Soong Dynasty. Harper & Row, 1985
-
Tài liệu Internet
2) Hoa ngữ
-
Lại Kỳ (賴琪): Trung
Quốc Cổ Ðại Tính Tàn Hại (中國古代性殘害) Ðài Bắc: Hạ Hỉ Văn Hóa Công Ty, 1995
-
Từ Tích Sơn (徐錫山): “Tam
Thốn Kim Liên Tung Hoành Ðàm” (三寸金蓮縱橫談) (Lịch Sử Nguyệt San, 2/1997)
[1]
Kathleen Kelleher, “It’s Legal, So Why Isn’t It Accepted? The Strangest
Species”, LA Times 7/28/97
[2]
Lin Yutang, My Country and My People,
(Halcyon House 1938) tr. 167
[3]
Fairbank, John K. China A New History
(The Belknap Press of Harvard University Press 1992) tr. 173
[4]
Fairbank, John K., China, A New History,
(The Belknap Press of Harvard University Press, London 1992) tr. 175
[5] 纖纖作細步, 精妙世無雙
[6] 婦女鞋襪考
[7]
tên thật là Cô Thang Sinh (辜湯生)
du học Anh nhưng quan điểm lại rất bảo thủ, đề cao tục lệ bó chân, nạp thiếp của
người Trung Hoa.
[8]
Lại Kỳ, Trung Quốc Cổ Ðại Tính Tàn Hại
(Ðài Bắc: Hạ Hỉ Văn Hóa Công Ty, 1995) tr. 98-103
[9]
Seagrave, Sterling, The Soong Dynasty,
(Harper & Row, 1985) tr. 159
[10]
Lại Kỳ, sđd tr. 70
[11] 滿漢可以通昏婦女禁止纏足 - Mãn Hán khả dĩ thông hôn, phụ nữ cấm chỉ
triền túc
[12] 天足運動 – thiên túc vận động
[13] 一王之力不改群盲之心,強男之頭不如弱女之足 – nhất vương chi lực bất cải quần manh chi tâm, cường nam chi đầu bất
như nhược nữ chi túc