Tôi xin được nói ít lời thay mặt các bạn của tôi, những học sinh của trường Trung học công lập Nguyễn Khuyến, thành phố Nam Định, niên khóa 1952-53, đúng 73 năm trước đây. Khi ấy chúng tôi ở lớp Đệ Ngũ, năm thứ ba bậc Trung học, sau gọi là Lớp 8. Thầy Doãn Quốc Sỹ được Nha Học chính Bắc Việt của chính phủ Quốc gia cử về làm giáo sư Quốc văn tại trường Nguyễn Khuyến đầu niên khóa 1952-53. và chúng tôi may mắn được học với Thầy.
Sau 5 năm ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như các nhân vật Kha, Hiển, Miên trong Ba Sinh Hương Lửa, người thanh niên Doãn Quốc Sỹ nhận ra bộ mặt thật của Cộng sản nên đã hồi cư về thành. Một mặt Thầy ghi tên tại Đại học Văn khoa Hà Nội để hoàn tất chương trình Cử nhân, mặt khác Thầy xin đi dạy học vì đã có gia đình. Chắc lúc ấy các trường Trung học công lập ở Hà Nội (như Chu Văn An, Nguyễn Trãi) đã có đủ giáo sư, nên Nha Học chính cử Thầy về Nam Định.
Trường Nguyễn Khuyến là hậu thân của trường Thành chung Nam Định. Trong thời Pháp thuộc, tại miền Bắc, bên cạnh những trường dạy chương trình Pháp như Lycée Albert Sarraut ở Hà Nội, hai trường Trung học đầu tiên dạy chương trình Việt (đúng ra là Pháp-Việt) là trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat, dân gian quen gọi là “trường Bưởi”) ở Hà Nội, và trường Thành chung Nam Định (Collège de Nam Dinh). Trong giai đoạn Pháp thuộc, nhiều nhân vật danh tiếng đã xuất thân từ trường này: các nhà văn Nguyễn Tuân, Nam Cao, nhạc sĩ Đặng Thế Phong, nhà giáo Hà Mai Anh, người dịch cuốn Tâm Hồn Cao Thượng…
Sang thập niên 1930, các giáo sư Vũ Quốc Thông, Vũ Quốc Thúc cũng học ở trường này. Năm 1945, dưới thời Chính phủ Trần Trọng Kim, chính phủ đầu tiên của Việt Nam sau khi Pháp bị Nhật đảo chính, Bộ trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn đã đổi tên trường Trung học Bảo hộ thành trường Chu Văn An và trường Thành chung Nam Định thành trường Nguyễn Khuyến. Tên “trường Nguyễn Khuyến” bắt đầu có từ đó.
Trong những năm đầu của cuộc chiến tranh Việt Minh – Pháp, trường Nguyễn Khuyến phải di tản về Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Một trong những người Việt xuất sắc học ở Nguyễn Khuyến giai đoạn ấy là Gs Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh. Nói tóm lại, học sinh Nguyễn Khuyến chúng tôi có quyền coi những nhân vật như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Đặng Thế Phong, Hà Mai Anh, Vũ Quốc Thông, Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Xuân Vinh … là các vị “niên trưởng” của mình. Cũng có một số cựu học sinh trường Thành chung Nam Định sau thành cộng sản. Nhân vật được nhắc tới nhiều hơn cả là Trường Chinh Đặng Xuân Khu.
Trong ba lớp Đệ Ngũ Nguyễn Khuyến học Quốc văn với Thầy Doãn Quốc Sỹ niên khóa 1952-53 cũng nhiều người xuất sắc. Học giỏi, đạt tới địa vị cao trong học giới cũng như trong xã hội ở Việt Nam cũng như ở Mỹ là anh Nguyễn Mạnh Hùng. Theo ngành truyền thông, được nhiều người mến mộ là anh Lê Văn (tên thật là Lê Lai), từng là Trưởng ban Việt ngữ đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Ủng hộ Cộng sản, ở lại miền Bắc khi đất nước chia đôi là anh Trần Khuê (tên thật Trần Văn Khuê). Anh từng viết sách, làm thơ ca tụng lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh, nhưng từ năm 2000 trở đi, bắt đầu lên tiếng đòi tự do, dân chủ cho đất nước. Theo Thầy Sỹ trong nghiệp viết văn là anh Trần Duy Hinh, lấy bút hiệu là Thao Trường, sau đổi thành Thảo Trường. Anh viết nhiều truyện và truyện ngắn nói lên tâm trạng day dứt trước tình trạng đất nước chia đôi, rồi đến nỗi khổ của người dân trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn, kết thúc bằng một chế độ độc tài toàn chế: Thử Lửa, “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp,” “Viên đạn bắn vào nhà Thục,” Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng. … Phía nữ sinh cũng nhiều chị lỗi lạc. Việt Nam từng có nữ Tiến sĩ Khoa học, nhưng vị nữ Kỹ sư đầu tiên là một cựu học sinh Nguyễn Khuyến, học trò Thầy Doãn Quốc Sỹ, chị Đỗ Thị Như Mai.
Nói chung, các bạn tôi ở ba lớp Đệ Ngũ trường Nguyễn Khuyến năm ấy rất kính trọng và quý mến Thầy Sỹ. Trước khi Thầy tới, đa số các giáo sư của Nguyễn Khuyến ở lớp tuổi trung niên hay cao hơn. Chúng tôi, lứa tuổi 15, 16, quen nhìn vị thầy qua hình ảnh một người cha. Năm ấy, ở tuổi 29, đang ghi danh theo Đại học và với dáng thân mật trẻ trung, Thầy Sỹ đã cho chúng tôi một vị thầy trong hình ảnh một người anh. Chúng tôi cảm mến Thầy vì Thầy ân cần và hiền hòa. Khi Thầy giảng bài, những anh bạn quấy phá nhất cũng chăm chú lắng nghe khiến lớp học yên tĩnh và trật tự.
Nhưng Thầy Sỹ không dạy chúng tôi trọn niên khóa. Chúng tôi được học với Thầy có nửa niên khóa thôi, từ khi khai giảng đến trước Tết Nguyên đán, danh từ thời ấy là trong “Đệ nhất lục cá nguyệt.” Khi Tết đến, Thầy về Hà Nội với gia đình nhưng lúc trở lại trường đầu năm mới Quý Tỵ 1953, chúng tôi được cho biết Thầy Sỹ không dạy ở Nguyễn Khuyến nữa. Nhà trường phải tìm cho chúng tôi một vị Thầy khác. Tuy ngẩn ngơ luyến tiếc, chúng tôi hiểu nguyên nhân và cũng mừng cho Thầy.
Tuy Nam Định chỉ cách Hà Nội 80 cây số nhưng trong thời chiến tranh, mỗi khi đêm tới, nhất là trong đoạn đường từ Nam Định đi Phủ Lý (khoảng 30 cây số), đường hay bị xẻ cắt. Cán bộ Việt Minh ở những làng hai bên đường ép dân ra phá đường. (“Đường đi ngoắt ngoéo chữ chi, Hố ngang hố dọc chữ I chữ TỜ”—Thơ Tố Hữu). Nhiều khi họ còn gài mìn đường và nhiều cây cầu, nên xe hơi từ Nam Định đi Hà Nội và ngược lại tới 8, 9 giờ sáng mới có thể khởi hành. Các xe cũng phải đi thành một đoàn, có xe nhà binh và xe dò mìn đi dẫn đầu, với tốc độ rất chậm, nên có khi mãi 3, 4 giờ chiều mới tới nơi. Vì thế mỗi ngày chỉ có thể hoàn tất một chuyến đi. Thấy Thầy Sỹ xuống Nam Định để dạy học trong khi gia đình vẫn sống ở Hà Nội, chúng tôi phỏng đoán chỉ đến cuối tuần Thầy mới có thể về thăm. Việc Thầy không trở lại sau Tết Nguyên đán khiến chúng tôi hiểu rằng Thầy đã tìm được việc làm ở Hà Nội, và – tuy ngẩn ngơ luyến tiếc -- chúng tôi mừng cho Thầy.
Vào Nam sau 1954, chúng tôi được đọc nhiều tác phẩm của Thầy. Ai cũng ngưỡng mộ và say mê cuốn Gìn Vàng Giữ Ngọc với những truyện như “Chiếc chiếu hoa cạp điều.” Anh bạn thân Lê Lai (Lê Văn) của tôi đặc biệt thích Dòng Sông Định Mệnh. Dạy Quốc văn ở Trung học, tôi chọn nhiều đoạn trong Hồ Thùy Dương để đọc cho học sinh nghe. Sau những năm 1964, 1965, khi tình trạng Miền Nam căng thẳng với nhiều chuyện đáng lo, chúng tôi buồn khi đọc Ba Sinh Hương Lửa với những câu như “Lịch sử có định mệnh của nó,” “Chúng ta chưa đến thời. Phải để cho cộng sản thành công đã, nhiên hậu sự thành công của chúng ta mới bền…” “Bậc thức thời … đứng tít trên đỉnh cao, nhìn suốt dòng lịch sử, thấy trước những khúc quành phải kinh qua, họ cô độc thật!” Chúng tôi cũng xót xa khi thấy Thầy mượn lời của nhân vật trong truyện để thốt lên những câu:
Ai mang tôi đến chốn này
Bên kia không óc, bên này không tim.
Sau biến cố 1975, cùng những thân nhân của chúng tôi bị cộng sản giam giữ, chúng tôi theo dõi những năm tháng tù đầy của Thầy. Trong thời gian làm việc cho thư viện của Đại học UCLA, tôi tìm những tác phẩm của Thầy xuất hiện rải rác trong môt số thư viện Đại học Mỹ, dùng phương tiện Interlibrary loan mượn về, chụp lại, đưa đến người em ruột Thầy là chị Doãn Thị Quý, xin chị giữ để chuẩn bị sẽ có ngày in lại. Khi Thầy được anh Doãn Quốc Thái bảo lãnh sang Houston, những bạn Nguyễn Khuyến định cư ở đó như anh chị Nguyễn Khắc Minh & Đỗ Thị Như Mai thường lui tới thăm Thầy.
Khi Thầy đổi về sống ở California, chúng tôi, nhóm Nguyễn Khuyến ở đây tới thăm Thầy dễ hơn. Trong nhiều lần cựu học sinh Nguyễn Khuyến quây quần với nhau, nhất là khi có bạn Nguyễn Khuyến từ xa tới, chúng tôi thường mời Thầy đến với chúng tôi và Thầy vui vẻ, sốt sắng đến. Những năm gần đây hơn, sức khỏe Thầy kém trước, mỗi khi chúng tôi mời như thế, chị Doãn Cẩm Liên thường là người chở Thầy đến tham dự những buổi họp mặt của chúng tôi.
Kính thưa Quý vị,
Được học nhà giáo Doãn Quốc Sỹ từ năm 1952, được đọc nhà văn Doãn Quốc Sỹ từ năm 1956, tôi xin có một nhận xét thô thiển về vị Thầy của chúng tôi như sau.
Doãn Quốc Sỹ thường được coi là một bậc hiền giả, có tâm khoáng đạt, có cách nhìn bao dung. Trước nhiều chuyện, có khi khá trái tai gai mắt, ông thường chỉ nhẹ nhàng thốt lên hai chữ “Thế đấy!” Ông giữ được điềm tĩnh và dùng ngôn từ hiền hòa như thế có lẽ vì đã qua nhiều từng trải, và điều ấy cho ta thấy ông có từ tâm. Trên căn bản, ông rất thiết tha với quê hương, đất nước như việc viết cuốn Người Việt Đáng Yêu. Khi đặt tên các con, ông chọn những từ đẹp cho tên con gái: Ngọc Thanh, Kim Khánh, Cẩm Liên …. nhưng với tên con trai, ông chọn những chữ như Quốc Thái (“quốc thái dân an”), Quốc Hưng (quốc gia hưng khởi), Quốc Vinh, Quốc Hiển (mong đất nước vinh hiển, vẻ vang). “Đặt tên cho người, đặt tình yêu nước vào nôi” (Phạm Duy) có vẻ cũng là tâm trạng của ông. Điều ấy không thể không ảnh hưởng đến tư duy các con. Được biết trong địa chỉ email của anh Doãn Quốc Hưng có những chữ “người Việt Nam.” Có lẽ anh đã đồng cảm với thân phụ?
Kính thưa Thầy,
Thầy dạy chúng em rất nhiều về văn chương Việt Nam, nhưng nay khi “trả bài,” được các bạn trao cho nhiệm vụ viết ra ít hàng về Thầy, thì em thấy bâng khuâng không viết nổi. Em vốn vẫn ít chữ, chỉ xin Thầy cho phép được đọc 14 chữ kính dâng Thầy như sau:
Để kính tiễn Thầy, em cũng xin được mượn lời của Nguyễn Du:
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có chữ rằng “vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Chúng em xin thành kính bái biệt Thầy.
Trần Huy Bích


