ẤM TRÀ
Nghề chơi cũng lắm công phu !!
Nguyễn Duy Chính
Một nhà nho Việt Nam cuối thế kỷ XIX ở Hà Nội
Deke Dusinberre. The
Book of Tea. (Paris: Flammarion, không rõ năm), tr. 71
Phu
vác trà vùng nam Trung Hoa đầu thế kỷ XX
Cambridge Illustrated History of China (1996) tr. 260
LỜI NÓI ÐẦU
Hầu như đã uống trà thì
ai cũng có cách uống riêng của mình, không thể nói ai sành hơn ai. Ðối với người
Á Ðông trà là một sinh hoạt rất phổ thông, vào tiệm ăn thường gia đình nào cũng
gọi thêm một ấm trà nóng để làm đồ uống phụ vào bữa chính.
Lịch sử còn khá nhiều
hình ảnh liên quan đến uống trà, từ một gánh trà rong bán cho phu kéo xe ở Quảng
Ðông hồi cuối thế kỷ XIX đến những trà quán tương đối sang trọng hơn ở San
Francisco. Ngay từ nhiều thế kỷ trước đã có những hình vẽ về sinh hoạt chẳng hạn
như Ðấu Trà [thi uống trà] đời Nguyên. Thế nhưng phong cách uống trà của người
Trung Hoa khác người Việt, phần vì họ luôn luôn có vẻ màu mè, phần khác vì cố
tình nâng lên thành một nghệ thuật và ngày nay mỗi cộng đồng người Hoa lại tự tạo
một cách thức riêng nên lại càng phức tạp.
Người Việt uống trà thường
là để giải khát hơn là thưởng thức và thói quen này cũng chính là một cách
phòng ngừa bệnh tật. Nước nấu sôi là một cách khử trùng hữu hiệu mặc dù ngày
xưa chưa có kiến thức về mầm bệnh ẩn trong nước lã chưa đun. Một cụ đồ ngồi
trên sập tay cầm xe điếu bên cạnh bộ đồ trà và hộp đựng trầu [chụp vào khoảng
1870 ở Hà Nội] quả là một hình ảnh rất Việt Nam nhưng rõ ràng con người là trọng
điểm còn những thứ khác chỉ là phụ.
Theo lịch sử, đồ sứ của nước ta đã được xuất cảng sang nước khác từ thời Trung Cổ trong đó có cả một số đồ dùng để uống trà. Ðã có thời đồ sứ Việt Nam là sản phẩm người Nhật ưa chuộng vì lối chế tạo giản phác phù hợp với sở hiếu của họ.[1] Thế nhưng trà cụ Việt Nam nằm trong khung cảnh chung là đồ sứ vì đồ trà nước ta không dùng một loại đất riêng và cũng không có một phương thức chế tạo khác biệt như người Trung Hoa. Chính vì nét độc đáo này, hiện nay cứ nói tới tử sa [zisha], Nghi Hưng [Yixing] ... thì ai cũng biết đó là ấm đất nung Trung Quốc.
Chén uống
trà Nhật Bản (安南茶碗)
(nhập
cảng từ nước ta khoảng tk XVIII, XIX)[2]
Vài chục năm trở lại đây,
từ khi chính quyền Hoa Lục mở cửa thông thương với bên ngoài, sản xuất và tiêu
thụ ấm trà bộc phát mãnh liệt. Việc sử dụng, sưu tầm ấm tử sa đã thành một trào
lưu và sách vở viết về trà và ấm trà khá phong phú [thường từ Hoa Lục hay Ðài
Loan], phổ biến trong giới người Hoa và cả một số người Việt.
Một cách tổng quát, có
hai hạng người sưu tầm ấm. Một hạng thuộc về sưu tập đồ cổ, coi trọng niên đại
và người nặn ấm. Chọn ấm loại này không phải vì công dụng của chiếc ấm mà vì
giá trị của món hàng với con dấu là bằng chứng của tác giả. Hạng người thứ hai
là người sưu tập như người ta chơi tem, chơi sách, chơi cây cảnh, càng nhiều
càng tốt, thích mắt thì mua. Tuy nhiên, mỗi hạng người lại có nhiều trình độ,
có người sưu tập theo kiểu, theo cỡ, theo loại, cũng có người sưu tập theo tên
tác giả giống như người sưu tầm tranh. Những cơn sốt ấm trà tạo nên những nhu cầu
giả tạo và không hiếm người nặn ra những chiếc ấm lạ lùng, giống như một tác phẩm
điêu khắc hơn là một dụng cụ dùng hàng ngày.[3]
Tuy nhiên theo những chuyên gia thì ấm dùng để pha trà nên có đủ những tiêu chuẩn
để tạo được một ấm trà ngon mới đáng kể.
TRÀ CỤ
Ðối với chúng ta, uống
trà chỉ cần những món tối thiểu: ấm đun nước, ấm pha trà và chén để uống. Thêm
một chút là ấm chuyên hay chén tống là dụng cụ để rót trà vào rồi san ra chén
nhỏ cho đều nhau, không ai đậm, ai nhạt. Thế nhưng theo thời đại, việc uống trà
nay phức tạp hơn nhiều, không phải chỉ ấm mà còn nhiều thứ lỉnh kỉnh khác.
Theo sách vở, một bộ đồ
trà đầy đủ bao gồm những món sau đây:
-
Ấm pha trà [trà hồ - 茶壺]
-
Hũ đựng trà
-
Bồn chứa nước thừa
-
Ðĩa lót ấm [trà thuyền - 茶船] để đặt ấm và hứng nước tràn ra khi pha trà
-
Ấm chuyên [trà chung - 茶盅] còn gọi là trà hải hay đại công bôi
-
Ðĩa để nắp [khi nhắc ra để rót nước sôi vào ấm thì để nắp ấm vào đó]
-
Khay trà [phụng trà bàn - 奉茶盤]
-
Chén [bôi - 杯] và đĩa [thác - 托]
-
Muỗng xúc trà
-
Cóng đong trà [trà hà - 茶荷]
-
Ðũa moi bã trà và đũa thông vòi ấm
-
Khăn lau
Những người chơi ấm lại
có cả một số bút lông, bàn chải ... là những khí cụ mà người ta gọi là “dưỡng
hồ” [nuôi ấm] để đánh bóng chiếc ấm đang dùng cho thêm phần cổ kính. Thành
thử, một bộ đồ trà kể cũng nhiêu khê nhất là món nào cũng có nhiều hạng, giá cả
cũng vô chừng. Một bộ đồ hoàn chỉnh khoảng vài trăm dollars. Nếu mọi thứ đều
kén chọn, giá cả có thể lên đến bạc ngàn.
CÁCH CHỌN ẤM
Mua ấm chủ yếu là để pha
trà. Ngày xưa, khi người khôn của khó thì có một cái ấm dùng mãn đời, chết đi để
lại cho con cháu như đồ gia bảo. Ấm đất đem sang nước ta thường là loại nhỏ, đơn
giản do một số thương nhân người Hoa chở thuyền sang bán.
Ngày nay, khi đi vào nghệ
thuật chơi ấm, những tiêu chuẩn cũ ít ai dùng mà phải theo sách vở nghĩa là có
lý thuyết hẳn hoi. Cứ theo các nhà chuyên môn nhiều kinh nghiệm, khi chọn ấm
người mua cần biết một số kiến thức để khỏi lầm.
Nguyên liệu
Tự cổ chí kim, ấm trà được
chế tạo bằng nhiều loại, từ kim khí như vàng, bạc, đồng, thiếc, sắt, thuỷ tinh,
đá, sứ ... trong đó đất nung là vật liệu được coi là có nhiều ưu điểm hơn những
loại khác. Một trong những truyền kỳ là ấm đất càng dùng lâu càng quí và vì thế
đồ cũ đắt hơn đồ mới.
Ấm đất nung thường gọi là
ấm tử sa (紫砂) [tử là màu tím nâu]. Tử sa là một loại đá được nghiền nát, sàng lọc,
chế biến qua nhiều giai đoạn khác nhau trước khi đến tay người thợ. Loại đá này
phân chất ra bao gồm những nguyên tố chính như thạch anh, đất sét, vân mẫu và
quặng sắt.[4]
Các chuyên gia đều cho rằng một trong những cái thú của người uống trà là việc
dùng vải hay bàn chải đánh bóng chiếc ấm cũ, càng lúc càng lên nước như có phủ
một lớp si. Do đó, việc chọn chất liệu làm ấm được coi là ưu tiên hàng đầu của
người sành sỏi vì loại ấm không tốt dùng lâu tuy cũ đi nhưng màu xỉn không bóng
bẩy.
Nói chung ấm Nghi Hưng cũ
thứ thiệt hạt tương đối lớn, cầm lên nặng tay và vì kỹ thuật thời xưa chưa tinh
vi tới mức “thưởng ngoạn” nên ít khi có ấm thật đẹp. Những ấm mới ngày
nay, mỹ thuật hơn, đất mịn hơn, tinh xảo hơn, nhiều đẳng loại hơn nên thường phải
nhiều lần sàng lọc trước khi chúng ta có được một bộ sưu tập ưng ý. Hiếm có ai
sành sỏi ngay từ những ngày đầu và kinh nghiệm nào cũng có cái giá riêng của
nó.
Tử sa [紫砂]
Màu tử sa có nhiều cấp độ,
từ đỏ thẫm chuyển sang màu nâu đến màu đen, tuy không đen nhánh như sừng nhưng
nhìn kỹ có màu tím than và nếu chẳng may bị vỡ sẽ thấy cạnh sắc như đá. Tử sa
là màu thông dụng nhất, dễ kiếm hơn cả nên sách vở thường đồng hoá ấm tử sa
[zisha] với Nghi Hưng [yixing].
Ðoạn nê [緞泥]
Ðoạn nê là đất màu vàng,
thường có lẫn những tạp chất li ti màu đen. Hiện nay, nhiều ấm màu vàng nhưng
không phải là đoạn nê vì tinh khiết quá, màu tươi quá. Ðoạn nê thật thường không
thuần sắc và cũng không mịn mặt một cách giả tạo. Ấm đoạn nê thường nhỏ, ít khi
kiếm được loại to.
Chu nê [硃泥]
Chu nê theo nghĩa đen là đất
màu đỏ mặc dù có người phân biệt ra một loại đất đỏ, màu tươi, độ dính cao mà
người thợ khéo có thể nặn mỏng như vỏ trứng [egg-shell].
Ấm chu nê có đặc tính
dùng lâu sẽ thẫm lại như một trái bồ quân chín. Nhiều người chuộng ấm chu nê vì
dùng một thời gian thì đậm dần, bình thường thì không thấy nhưng khi rót nước
nóng vào lại đỏ au lên sinh động chẳng khác gì một con cá lia thia thấy bóng
mình trong nước. [5]
Có điều đất chu nê đã
khai thác hết từ mấy chục năm nay, phần lớn ấm nói là chu nê không phải là đồ
thật, ngoại trừ một số danh thủ còn giữ được một số ít để làm những ấm khá đắt
tiền.
Ngoài ba loại màu chính
trên đây, một số màu khác tương đối hiếm hơn, do thiên nhiên cũng có mà do pha
chế cũng có, màu trắng, màu xanh dương, màu lục ... với nhiều cấp độ cũng được
dùng trong kỹ nghệ làm ấm nhưng không được ưa chuộng bằng.
Kỹ thuật
Việc chế tạo một chiếc ấm
trải qua thời gian đã được thử thách và thí nghiệm nhiều kỹ thuật khác nhau, từ
luyện nê đến xây lò, nung đất. Thời Ðại Bân [một danh thủ nặn ấm đời Minh mạt]
còn giã nhỏ đồ sứ làm thành hồ để nặn ấm mới. Gần đây, một số công tác đã được
nghiên cứu theo lối khoa học hiện đại nên càng ngày càng rút tỉa được những
kinh nghiệm quí báu. Ðể cung ứng cho nhu cầu ngày càng cao, một số công ty đã cố
gắng tái tạo một số ấm chén theo kiểu đồ sứ thời Tống, thời Nguyên. Tuy ấm đất
chưa có những tiêu chuẩn nhất định về độc ẩm, song ẩm, quần ẩm ... nhưng học hỏi
kinh nghiệm, kế thừa kỹ thuật là điều cần thiết và càng ngày chúng ta càng thấy
mới mẻ về hình dáng lẫn chất liệu.
Hình dáng
Hình dáng thay đổi theo từng
thời kỳ, muôn hình vạn trạng. Hầu như trong lãnh vực tạo hình, ấm đất đã được
chế tạo đa dạng hơn hẳn các loại đồ gia dụng khác.
Giai đoạn đầu tiên, ấm được
nặn giả làm đồng cổ, hình đa giác, mũ nhà sư, cho chí hình dẹt, hình ống. Những
đời sau cũng bắt chước chỉ thêm các hoa văn, chữ viết hay điêu khắc cho lạ kiểu.
Ðến gần đây, hình thù lại càng đa dạng nhưng không thích hợp cho việc pha trà.
Về dung lượng, có những ấm
nhỏ để trang trí nhưng cũng có những ấm thật to mà người thợ muốn nặn cho khác
thường. Thông dụng nhất là các loại dùng để pha trà, khoảng từ 120 đến 400 cl
dùng cho một đến bốn, năm người.
Trang trí
Trang trí và điêu khắc
trên thân ấm, nắp ấm cũng là một cách để gửi gấm ước vọng, trình độ của chủ nhân.
Ngày xưa, nhiều nho sĩ tự tay mình đề thơ hay vẽ hình trước khi cho vào lò
nung. Ngày nay, phần lớn ấm được sản xuất với số lượng lớn, chỉ những ấm nặn
tay hay đặc biệt mới có thêm điêu khắc hay chữ viết, nhìn vào thư pháp hay nội
dung có thể đánh giá phần nào được trình độ và phong thái của chủ nhân.
Công năng
Thường thì chúng ta mua ấm
chú trọng đến hình dáng, kiểu ấm, chất liệu nhưng lại ít để ý đến công dụng
chính của chiếc ấm là để pha trà. Một chiếc ấm tốt thường dễ rót, nước chảy ra trơn
tru, không tấm tức.
Ấm mới ngày nay thường chặn
được lá trà khỏi chui vào vòi làm tắc ấm bằng nhiều lỗ nhỏ [6 hay 9 lỗ] hoặc tổ
ong hình cầu đục vô số lỗ nhỏ thay vì một lỗ lớn. Nắp ấm cũng cần khít khao, vừa
vặn kín hơi. Thông thường nhất, đổ nước vào khoảng 2/3 rồi rót ra, nếu bịt lỗ
thông hơi trên nắp, nước ngưng ngay lại không chảy nữa là ấm kín.
QUÁ TRÌNH NẶN THÀNH MỘT CÁI ẤM
Nặn được một cái ấm thuỷ
bình trơn [không hoa văn] tuy đơn giản nhưng phải qua 63 thao tác, chia làm 5
giai đoạn:
1.
Thân ấm gồm 22 trình tự, bao gồm từ việc chia cục
đất thành nhiều phần khác nhau để làm thân ấm, đáy ấm. Sau khi đập dẹt, đất làm
thân được cuốn thành hình tròn. Ðường nối của thân ấm luôn luôn được đánh dấu để
sau này gắn quai ấm.
Sau khi làm được thân ấm,
người thợ sẽ nối với đáy và khoét thành miệng ấm.
2.
Vòi ấm gồm 7 trình tự, quan trọng nhất là làm
sao cho thành vòi đều, nước chảy ra không bị tắc và cân xứng với thân ấm.
3.
Quai ấm gồm 6 trình tự, sao cho cân với vòi ấm.
4.
Nắp ấm gồm 17 trình tự, là phần phức tạp nhất
trong việc nặn ấm. Nắp ấm có nhiều phần, dày mỏng không đều, phải vừa với miệng
ấm. Những ấm tốt hiện nay có phần chìm rất mỏng và khít, đậy lên không xục xịch
chút nào. Sau khi gắn núm trên nắp, người thợ đục lỗ thông hơi để nước có thể chảy
ra khi rót.
5.
Giai đoạn sau cùng quan trọng hơn cả là ráp tất
cả những bộ phận thành cái ấm. Quai ấm, vòi ấm cân xứng và thích hợp, được chau
chuốt lại cho mất vết tích đã nối. Thân ấm cũng được chà bóng cho trơn tru và
miệng ấm không bị biến dạng trong quá trình nặn ấm.
Một khi mọi việc đều hoàn
chỉnh, người thợ mới đóng dấu lên nắp ấm, đáy ấm, tay cầm ... trước khi đưa vào
lò nung. Các công việc trên chỉ bao gồm việc hoàn thành cái ấm, còn như vẽ hình
hay viết chữ lại thuộc giai đoạn khác. Những chiếc ấm quí, công viết chữ, vẽ
hình được tính ngang với việc làm ấm. Nhiều cơ xưởng có một đội chuyên gia làm
việc này nhưng những thợ lành nghề có hoa tay thường tự mình đảm trách.
Nhiều chiếc ấm giá cao vọt
lên vì có đến ba danh thủ cùng làm, người thợ nặn ấm, người khắc hoa văn và người
đề chữ. Một chiếc ấm đẹp có thêm vài chữ nho hay một hai câu thơ thường tạo ra
một cảm xúc khó tả nhất là nếu chúng ta hiểu được rằng mỗi động tác đều không
thể sửa lại được, chiếc ấm đã hoàn thành cũng giống như một thư pháp gia hạ tay
xuống tờ giấy bản, nếu không vừa ý chỉ có cách xé bỏ chứ không có thể tẩy xoá.
TÔI ẤM
Tôi ấm là làm cho ấm mất đi
mùi đất trước khi dùng. Ấm mới dù tốt cũng vẫn có những mạt đất li ti, nếu dùng
pha trà ngay sẽ có mùi gạch, vừa khó chịu, vừa mất vệ sinh. Do đó, trước khi
dùng chúng ta nên dùng giấy nhám đánh sơ qua bên trong ấm, dùng kim móc đi những
vụn đất còn sót lại trong các khe nhỏ hay vòi ấm.
Khi ấm đã sạch rồi, nên rửa
ấm nhiều lần, cho nước chảy để xem có gì không được như ý chăng? Nắp ấm đôi khi
không khít lắm tuy hiện nay những ấm tốt thường được mài hay tiện lại cho thật
vừa. Chúng ta cũng nên dùng nắp ấm xoay quanh miệng ấm một vài vòng để hai bên
cọ sát với nhau cho thật tròn, không bị vướng hay hóc.
Ấm Nghi Hưng là loại không
tráng men, có những khí khổng li ti (pores) nên uống trà một thời gian, cao trà
đóng vào sẽ bít đi những kẽ hở và tạo nên một hương vị riêng. Vì thế ấm cũ thường
kín hơn ấm mới và nhìn cao đóng quanh nắp ấm chúng ta có thể đoán chừng được ấm
đã dùng nhiều hay ít.
Sau khi chuẩn bị, cho ấm
vào một cái nồi, đổ bã trà hay trà cũ vào ninh lên chừng 2 tiếng đồng hồ, vừa để
cho ấm sạch, vừa để ấm có dịp nở ra cho cao ngấm vào. Sau khi tôi ấm, rửa sạch
rồi phơi cho khô trước khi dùng để pha trà. Thường ấm phải dùng vài ba lần mới
biết được những ưu và khuyết điểm của nó. Nhiều ấm trông đẹp, đắt tiền nhưng
khi dùng lại có những điều không vừa ý, nước chảy không đều, cầm trên cao rót
xuống không chảy thành dòng mà tung toé, nhắc không cân, lệch tay, quai rộng
hay chật quá ...
Mỗi người chúng ta có vóc
dáng riêng, tiêu chuẩn riêng nên ấm cũng như áo mặc, vừa với người này mà chưa
hẳn thích hợp cho người khác. Việc pha trà cũng cần thoải mái nên nếu như ấm có
điều bất toàn, trà thủ sẽ không cảm thấy tự nhiên.
Ấm Thế Đức Đường
Ấm Lưu Bội
Ấm Mạnh Thần
Ấm Nghi Hưng tại thuyền bị đắm
Gánh trà rong ở Quảng Đông
THẾ ÐỨC GAN GÀ ...
Thứ nhất Thế Ðức
gan gà,
Thứ nhì Lưu Bội,
thứ ba Mạnh Thần.
Các bà
ngồi uống trà
(khoảng
đầu thế kỷ XX)
Nghi Hưng [tên cũ Dương
Tiện] nằm ở phía tây Thái Hồ [ngã ba của các tỉnh Giang Tô, An Huy, Chiết
Giang] là một khu vực chuyên sản xuất đồ bằng đất nung, nổi tiếng nhất là ấm
trà. Vùng Nghi Hưng có những mỏ đá, được khai thác và qua một chu trình biến chế
trở thành đất nặn ấm. Tuỳ loại đất, loại mỏ người ta có được những sản phẩm
khác về chất, về màu. Do đó nói ấm Nghi Hưng là nói chung về ấm đất không tráng
men [unglazed].
Như chúng tôi đã đề cập, đất
nặn ấm bao gồm ba loại chính: chu nê [朱泥][6],
đoạn nê [緞泥] và tử sa [紫砂]. Hai màu tím nâu [tử sa] và đỏ [chu nê] thông
dụng nhất. Ðoạn nê là loại đất màu vàng hơi ngả màu xanh lục.
Về màu gan gà, hiện nay
có hai giải thích xem ra đều có lý. Một lối giải thích chính thức [theo nghĩa
trong từ điển] cho rằng màu gan gà “tả màu vàng hoặc xám vàng, giống
như màu gan của gà (thường nói về đất sét)”. Ðây là định nghĩa trong Từ Ðiển
Tiếng Việt do Viện Ngôn Ngữ Học [Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam] (Hà Nội:
Trung Tâm Từ Ðiển Ngôn Ngữ, 1992) tr. 373. Ðịnh nghĩa này còn có thêm “đất gan
gà, vách đá gan gà” làm thí dụ. Ðây hẳn là màu miếng gan gà đã luộc chín cắt
ra bày lên đĩa.
Cũng theo cách giải thích
này, Từ Ðiển Việt Hán [giáo sư Ðinh Gia Khánh hiệu đính], (Hà Nội: Bộ Ðại
Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp, 1990) trang 414 định nghĩa “gan gà 1-鷄肝 [kê can] 2-黄色 [hoàng sắc]” với thí dụ “đất gan gà -黄色土 [hoàng sắc thổ]”.
Một số từ điển tiếng Việt
khác chúng tôi tra cứu lại không rõ, nói đúng ra là không định nghĩa gì cả. Việt
Nam Tự Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức (Hà Nội: Trung Bắc Tân Văn, 1931) tr.
202 viết “Gan gà: Màu như màu gan gà: Ðất gan gà”. Ðại Từ Ðiển Tiếng Việt
[Nguyễn Như Ý chủ biên] do Trung Tâm Ngôn Ngữ và Văn Hoá Việt Nam [Bộ Giáo Dục
và Ðào Tạo] (Hà Nội: Văn Hoá-Thông Tin, 1999) tr. 705 viết “gan gà: Màu của đất
giống như màu gan của con gà: đất gan gà”.
Tuy nhiên, ngoài màu vàng
ở trên, một lối giải thích khác không hẳn là vô lý. Màu gan gà là màu nâu sậm, ẩn
màu tím của lá gan con gà còn tươi khi mới mổ. Màu này cũng chính là màu tía
theo nguyên thuỷ chữ Hán trong “tử sa”. Nếu như thế, ấm gan gà là ấm
tử sa màu nâu sậm là màu khá thông dụng cho các loại ấm đất, chỉ sau loại
màu đỏ gạch. Cụ thể là trong số những ấm đất mà người ta tìm thấy trong các
thuyền buôn bị đắm thì hầu như chỉ có hai loại ấm màu đỏ [chu sa] và ấm màu nâu
[tử sa], không thấy ấm màu vàng [đoạn nê] là loại mà ngay ở Trung Hoa cũng ít
thấy. Nếu xem tận mắt lá gan gà chưa luộc chín thì màu sắc quả rất tương đồng với
những ấm tử sa loại tốt. Do đó ấm gan gà mà cổ nhân mua được chính là ấm tử sa
màu nâu sậm, không phải ấm màu vàng. Ðây là một giả thiết được bằng hữu góp ý,
người viết chỉ đưa ra cho rộng đường dư luận.
Thực ra “Thế Ðức gan
gà” mà các cụ ta nhắc đến không phải là ấm số một trong các loại ấm Nghi
Hưng. Dưới thời Minh Thanh [và cả sau này thời Dân Quốc], người Trung Hoa có một
mạng lưới thương mại rất rộng, hầu như khắp nơi trên thế giới. Ðồ sứ, đồ đất
nung là những món hàng được ưa chuộng. Riêng các quốc gia Ðông Nam Á, ấm đất được
chở sang gồm nhiều hiệu khác nhau nhưng Thế Ðức Ðường [世德堂] là loại nổi tiếng nhất, kế đó là ấm nhỏ hình quả lê theo hai kiểu Lưu
Bội, Mạnh Thần. Khi chọn ấm, phân biệt Thế Ðức, Lưu Bội, Mạnh Thần là nhãn hiệu
ở đáy ấm, thường là chữ viết hay con dấu. Thế Ðức Ðường là tên một hãng sản xuất,
Lưu Bội và Mạnh Thần trái lại là tên của hai danh sư chuyên nặn ấm đời Minh. Về
sau, một số kiểu ấm của hai vị này được hình danh, gắn liền với tên trở thành
hai cái tên ấm - ấm Lưu Bội, ấm Mạnh Thần. Khi ba cái tên Thế Ðức, Lưu Bội, Mạnh
Thần được gộp chung lại xem ra có điều bất ổn vì một đằng là thương hiệu, một đằng
là kiểu ấm. Trong những ấm mới hiện nay, không thấy ấm giả mang dấu Thế Ðức [Ðường].
Những loại Lưu Bội, Mạnh Thần mà các cụ nói đến là kiểu ấm chứ không phải do
hai danh thủ Lưu Bội hay [Huệ] Mạnh Thần [đời Minh] hơn năm trăm năm trước nặn
rồi chở thuyền sang bán ở bên ta.[7]
Nói chung, ba tên này là
ba hiệu ấm thông dụng nhất nhập cảng vào nước ta hồi thế kỷ XVIII, XIX. Ngày
xưa chẳng mấy ai đủ tiền để mà so sánh hơn kém nên hai câu: “Thứ nhất Thế Ðức
gan gà, Thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần” được người nọ truyền cho người
kia như một câu “thần chú” để khi mua khỏi bị lầm. Thời xưa, việc có được
một chiếc ấm là đại sự, không phải như chúng ta hôm nay, muốn mua bao nhiêu cũng
có.
Thực ra, ba hiệu này cũng
có nhiều thành phẩm, tốt xấu tuỳ loại, tuỳ hàng, tuỳ đợt ... việc khẳng định một
cách võ đoán như trên chưa hẳn đã đúng. Có điều khi đã thành định kiến rồi thật
khó thay đổi. Cho đến nay, hai loại Thế Ðức và Lưu Bội hầu như tuyệt chủng
nhưng ấm Mạnh Thần thì có nhiều, không phải vì tên hiệu mà vì kiểu ấm được nhiều
người biết đến.
Lưu Bội: không rõ năm
sinh, năm mất. Một số chuyên gia đoán rằng ông sống vào thời Thanh sơ, cũng có
người cho rằng ông thuộc đời Minh mạt hay sớm hơn nữa, đời Gia Tĩnh.
Lưu Bội nổi tiếng về các
loại ấm chu nê nhỏ, hiện nay còn lại không nhiều. Dương Tiện Sa Hồ Ðồ Khảo
[陽羨砂壺圖考] liệt kê 5 chiếc:
-
Chiếc thứ nhất do Ðường Thiên Như sưu tầm được, thuộc loại chu nê nhỏ, dưới trôn
ấm có dấu viết năm chữ “Dĩ Tri Cấp Cổ Công” [以知汲古功] và ký tên “Lưu Bội Chế” [留珮製], chữ chìm.
-
Chiếc thứ hai do Phi Vân Lâu cất giữ, cũng là loại ấm chu nê nhỏ, dưới đáy có
hai chữ “Thính Ðào” [聽濤] (nghe tiếng sóng vỗ), khắc bằng dao tre, trong
nắp có ấn kiềm hai chữ “Nguyên Giang” theo lối triện, vành nắp có viết
hai chữ “Lưu Bội”.
-
Chiếc thứ ba cất giữ tại Bất Ðam Các, dưới đáy có viết sáu chữ “Lưu Bội Chu
Nê Tiểu Hồ” nét tương tự như của Ðường Thiên Như.
-
Một chiếc khác cũng ở Bất Ðam Các, có sáu chữ “Lưu Bội Chu Nê Tiểu Hồ”
theo lối thảo.
-
Chiếc thứ năm do Trương Hồng giữ, dưới đáy có sáu chữ “Lưu Bội Chu Nê Tiểu Hồ”,
dưới nắp có dấu kiềm “Nguyên Giang”.[8]
Nếu đúng như thế, ấm do chính tay Lưu Bội nặn
ngày nay không còn nhiều. Những ấm có đóng dấu Lưu Bội tuy cũ thật nhưng đều
thuộc dạng ấm thương mại được sản xuất hàng loạt. Thỉnh thoảng trên internet cũng
thấy một hai chiếc ấm Lưu Bội hay Mạnh Thần để bán và thường được mua với giá từ
100 đến 400 dollars, tuỳ loại, tuỳ kiểu, xem ra cũng không phải là đắt lắm, nếu
có dư dật và kiên nhẫn một chút có thể mua được.
Về Mạnh Thần, theo chính những hàng chữ viết thì
ông sống vào đời Minh Thiên Khải (1621-1627) qua tới đời Sùng Trinh
(1628-1644). Ông thường nặn loại ấm nhỏ tròn, khắc chữ bằng dao tre, trong nắp
có hai chữ “Vĩnh Lâm” bằng chữ triện.[9]
Ấm Mạnh Thần chế tạo đa số là ấm chu nê và tử sa, chỉ có rất ít ấm bằng đoạn
nê. Các loại ấm cỡ trung và đại cũng hiếm.
Trong các ấm cổ, dường
như ấm Mạnh Thần được người ta “nhái” nhiều hơn cả và cũng là loại ấm nhỏ
thông dụng nhất. Tuy nhiên, ấm do chính tay ông làm không dễ kiếm và đều ở
trong tay các nhà chuyên môn hay viện bảo tàng.
Các loại ấm thương mại Thế
Ðức, Lưu Bội, Mạnh Thần xuất hiện trong sách phần lớn là loại “thuỷ bình”, [10] tay cầm,
miệng ấm và vòi ấm ngang nhau [còn gọi là “tam sơn tề”]. Ðặc tính này cũng
trở thành một tiêu chuẩn để chọn ấm [bằng cách lật úp trên một mặt phẳng, hoặc
thả vào nước xem có cân không]. Ấm có ba điểm ngang nhau sẽ không bị tràn nước
ra khỏi vòi khi rót đầy. Tuy nhiên, theo cách thức pha trà ngày nay, ấm luôn luôn
được để trong một cái tô lớn [trà thuyền] nên việc nước trào ra hay không cũng
không còn là vấn đề. Việc quai ấm phải ngang với miệng ấm cũng không còn là một
trọng điểm vì thực ra quai ấm không liên quan đến mực nước mà để cho thuận tiện,
quai ấm nhiều khi được chế tạo cao hơn miệng bình để khi rót không phải nâng
lên, dễ cầm hơn có quai ngang với thân ấm.
Việc lật úp ấm lên mặt
bàn cũng chỉ áp dụng được cho những loại ấm đơn giản, kiểu cổ. Ngày xưa ấm đem
sang bán ở nước ta thường là loại thương mại, được chế tạo với số lượng lớn, ít
khi được điểm xuyết bằng tay, cái tròn cái méo không đều nên phương thức giản dị
để chọn một cái ấm đẹp và tốt khi đến hiệu buôn là cần thiết. Những cách thức
mà nhà văn Nguyễn Tuân nhắc đến nên được hiểu và áp dụng trong khung cảnh xã hội
Việt Nam cách đây 100 năm, thời đại mà dân trí thấp, nghèo nàn, buôn bán đều là
tiểu thương, ngày nay những tiêu chuẩn đó không có giá trị bao nhiêu.
Hình 10: Một trà quán ở Nam Kinh khoảng 1930
The
Book of Tea, tr. 105
THƯỞNG
TRÀ
Trong lịch sử, kỹ nghệ
làm ấm phát triển rất giới hạn, không phát triển độc lập mà có những tương ứng
nhất định với kỹ nghệ trồng và chế biến trà. Khi việc xuất cảng trà trở thành
quan trọng và trà Tàu được bán ra ngoài với số lượng lớn, việc bán ấm, nặn ấm
cũng phát triển theo. Khi vào những quốc gia Ðông Nam Á, chỉ thành phần Hoa kiều
và một số nhỏ giới nho sĩ, trưởng giả địa phương mới mua ấm đất để dùng. Ở nước
ta, số ấm cũ còn lại rất ít, cũng không đẹp như những ấm cổ ở Hoa lục hay Ðài
Loan.
Ấm dùng để pha trà nên nếu
quá “đẹp” thì thường không tiện dụng. Những loại ấm cầu kỳ ngày xưa
không ai mua vì cổ nhân chưa đạt đến mức mua ấm để trưng, bỏ tiền mua về mà
không dùng đến. Cho nên ấm cũ nghĩa là đã có người dùng pha trà nhiều lần, lưu
truyền trong gia đình như một món đồ gia dụng. Không đạt được những tiêu chuẩn
chính yếu của một ấm đất pha trà chắc chắn không ai giữ đời này qua đời khác
làm gì. Cũng vì thế, hiếm có ấm nào tốt mà lại còn nguyên vẹn, không hư hao
theo thời gian. Miệng ấm, nắp ấm, vòi ấm, tay cầm khó có thể còn hoàn hảo như mới
mà sứt mẻ ít nhiều lại không có phương tiện để hàn chắp, vỡ rồi đành chịu.[11]
Trong sách còn hình ảnh những ấm cổ bị nứt vỡ phải khoan rồi dùng nhiều đinh đồng
kiềm lại đủ biết việc tái tạo rất nhiêu khê.
Ngày xưa, trà cũng đắt,
là một “xa xỉ phẩm”, ấm của người phong lưu thường nhỏ bằng nắm tay trẻ
con [độc ẩm] hay hơi lớn hơn một chút [song ẩm] rót đầy vài chiếc chén bé bằng
hạt mít. Nói là thế, chỉ khi nào có khách quí chủ nhân mới đem trà Tàu ra đãi,
còn bình thường trong gia đình dùng ấm lớn pha trà [khô hay trà tươi, lá vối]
dùng với chén lớn trong việc giải khát hay tráng miệng.
Theo giá cả ngày xưa, một
cân trà [Tàu] giá lên đến một tháng lương, nhiều loại lên đến cả năm lương. Ðó
là tính theo tiền Âu Châu, ở các nước Á Châu chắc còn hơn. Ðắt như thế nên giới
trung lưu thường không dám mơ đến chuyện uống trà Tàu.[12]
Ngược lại, thời đại hôm nay kinh tế thị trường mang tính toàn cầu, việc uống
trà không còn là một thưởng ngoạn dành cho thiểu số, ấm đất cũng được làm lớn
hơn, chén cũng to hơn cho tương ứng với sinh hoạt.
Phú quí sinh lễ nghĩa, việc
uống trà cũng thành cầu kỳ, nhiều loại trà cụ và nghi thức cũng phức tạp hơn mặc
dầu ngay cả tại Trung Hoa và Ðài Loan, cách thức uống trà, chơi ấm vẫn chưa thống
nhất. Một số tác giả đã kết tập các cách chọn trà, chọn ấm, pha chế và nghi thức
cho thành bài bản, nhiều địa phương còn có những buổi tập huấn hay chỉ dẫn cho
những hội viên của các câu lạc bộ thưởng ngoạn.[13]
CON DẤU VÀ CHỮ
VIẾT
Khi nghiên cứu về con dấu
đóng trên ấm, những người chơi đồ cổ có cả một công trình để phân biệt thực hư
vì kiểu ấm luôn luôn liên quan đến thời đại và sáng tạo của các danh thủ. Con dấu
và cái hồn [spirit] của chiếc ấm cho biết tác phẩm đó được xuất hiện thời kỳ
nào và là một dấu hiệu xác định giá trị của chiếc ấm đó. Thế nhưng con dấu cũng
chính là chỗ mà kẻ gian hay làm giả nhất. Nhiều chiếc ấm giả cổ hay giả danh
[làm giả của các danh thủ] làm rất khéo, để bên cạnh cũng khó ai phân biệt được.
Cứ theo sách vở, việc khắc
hay đề thơ chỉ mới được xuất hiện khá trễ khi việc nặn ấm đã trở thành một nghệ
thuật, không còn ý nghĩa nguyên thuỷ là hoàn thành một dụng cụ uống trà. Ấm đất
cũng giống như văn phòng tứ bảo [bút, nghiên, giấy, mực] nay là một phần trong
sinh hoạt của văn nhân. Vì thế, những câu thơ, chữ viết khắc trên ấm nói lên ước
vọng và tâm tư của người chủ. Một đôi câu thơ hay dễ động lòng người hơn là chỉ
những lời chúc tụng sáo rỗng. Chiếc ấm mới tôi vừa mua có viết hai câu thơ rất
hay của Nguỵ Dã:
Tẩy
nghiễn ngư thôn mặc,
Tiễn
trà hạc tị yên.
洗硯魚吞墨
煎茶鶴避煙[14]
Rửa nghiên cá nuốt mực
Nấu trà hạc tránh khói
Tuy chỉ tổng cộng 10 chữ,
chúng ta cũng hình dung được nhà nho đang ngồi viết, làm thơ bên cạnh một hồ nước
với những con cá lượn và một tiểu đồng quạt nước pha trà, chung quanh là những
con hạc lững thững rất nhàn tản, một khung cảnh vừa thanh bình, vừa phong lưu.
Những chiếc ấm của Ðài
Loan nặn bằng tay gần đây thường có tên người làm, năm chế tạo nên chúng ta dễ
biết được làm vào thời gian nào, chứng tỏ đó là ấm thật, không nguỵ tạo, giả cổ.
Loại đề chữ như thế đã làm phong cách sưu tầm đi vào một bước mới, không lệ thuộc
vào con dấu [rất dễ làm giả]. Việc ghi lại niên đại và tên của nghệ nhân cũng
còn là một kiêu hãnh ngầm chứng tỏ sự lương thiện và thành tín, không nhập nhằng,
tuy không công khai nói ra nhưng là một xác quyết và bảo đảm về phẩm chất của của
ấm Ðài Loan. Ðôi khi, một chiếc ấm được hình thành bởi ba tác giả khác nhau, một
người nặn ấm, một người khắc ấm và một người viết chữ. Nếu cả ba người đều nổi
tiếng thì giá trị chiếc ấm tăng lên rất nhiều.
Những chiếc ấm mới còn được
dùng như một tấm vải để nghệ nhân gửi gấm một bức tranh, một bài thơ. Có một
chiếc ấm tốt, nét chữ khắc lại tinh xảo, câu thơ nhiều ý nghĩa cũng là một cái
thú không phải ai cũng biết thưởng thức. Không hiếm người coi bản điêu khắc là
tiêu chuẩn quan trọng khi chọn ấm. Chu Quế Trân, một danh thủ ấm Nghi Hưng đã
khắc bài thơ thất ngôn luật thi của Phùng Kỳ Dung[15]
[馮其庸] trên ấm Mạn Sinh đề lương [ấm có quai vòng lên trên] như sau:
世事從來假復眞,
大千俱是夢中人。
一灯如豆拋紅淚,
百口飄零系此城。
寳玉通靈歸故國,
奇書不脛出都門。
小生也是多情者,
白酒三杯吊舊村。
Dịch
âm
Thế sự
tòng lai giả phục chân
Ðại
thiên câu thị mộng trung nhân
Nhất
đăng như đậu phao hồng lệ
Bách
khẩu phiêu linh hệ thử thành
Bảo ngọc
thông linh qui cố quốc
Kỳ thư
bất hĩnh xuất đô môn.
Tiểu
sinh dã thị đa tình giả
Bạch tửu
tam bôi điếu cựu thôn
Dịch
nghĩa
Việc đời xưa nay thật và giả khó phân biệt
Tất cả mọi người ai ai cũng đều như ở trong mộng
Một ngọn đèn nhỏ như hạt đậu mà cũng nhỏ lệ hồng
Huống chi là hàng trăm người phiêu lãng, lênh đênh thì còn đến đâu
Ngọc quí có thể thông được về nước cũ
Sách lạ khó có thể qua được chỗ đô môn
Người học trò nhỏ này cũng là kẻ đa tình
Thôi lấy ba chén rượu suông để nhớ đến thôn xưa
ẤM GIẢ CỔ
Ấm đất là hàng đưa từ
Trung Quốc sang, không phải là sản phẩm của người Việt. Trước đây việc uống trà
bằng ấm nhỏ được coi như một biểu tượng thanh cao, trong giới tương đối có học
và dư dật. Qua thời gian và nhiều năm binh lửa, ấm trà cũ ở nước ta không còn
nhiều, những ấm cũ nay còn thấy cũng không phải là ấm quí do các danh thủ nặn
mà chỉ thuộc mặt hàng thương mại, giá trị trung bình.
Cũng như các sưu tập
thông dụng của người Trung Hoa như thư pháp, hội hoạ, nghiên cổ, đồng cổ ...,
thú sưu tầm ấm trà nếu có cũng chỉ mới được du nhập vào Việt Nam trong thời
gian gần đây. Xã hội nước ta vì chiến tranh, vì sinh hoạt nên ít có những món
gia bảo truyền đời này sang đời khác như ở bên Tầu. Phần lớn chúng ta uống trà
bằng bình tích giữ trong ấm ủ lót bông, trà cũng là loại trà thường nên khó có
gia đình nào giữ được ấm quí. Thành thử, những người chơi ấm hiện nay đều nhắm
vào ấm đất sản xuất ở Nghi Hưng.[16]
Theo những người lão luyện,
nếu có nhiều tiền và muốn sưu tầm ấm cổ thì việc đầu tiên là làm quen với ấm,
trước hết là vào những viện bảo tàng nhìn ngắm những bộ sưu tập trưng bày trong
đó. Tuy nhiên, đó là ở những khu vực đông người Hoa hay tại chính quốc chứ những
người như chúng ta thì cũng khó có dịp.
Việc làm quen với ấm
đất do đó chỉ còn cách là mua một số sách viết về ấm Nghi Hưng để nhìn hình cho
có một khái niệm. Ấm mang nhãn Mạnh Thần thì khá nhiều nhưng ấm đóng dấu Lưu Bội
hay Thế Ðức [Ðường] thì rất ít, cũng không phải là loại ấm hảo hạng. Trong những
sách vở và biên khảo về ấm đất, tôi chưa thấy có những chi tiết cụ thể về hai
thương hiệu này nên không nghĩ là đây là những món hàng được các đại gia Trung
Hoa săn đuổi.
Ðã có lúc, ấm Nghi Hưng
trở thành một cơn sốt. Ðó là khi một số người tương đối khá giả trong cộng đồng
người Trung Hoa ở bên ngoài (Ðài Loan, Singapore, Thái Lan, Malaysia, Hoa Kỳ
...) bị mê hoặc bằng những truyện thần kỳ. Khoảng đầu thập niên 80 của thế kỷ
trước, sau một số đợt triển lãm và giới thiệu về ấm Nghi Hưng, nhiều đại gia đi
lùng ấm cổ. Có người đã bán cả nhà để mua cho bằng được một chiếc ấm quí. Bảo
tàng ấm đất đầu tiên ở Hongkong trình bày bộ sưu tập do tiến sĩ La Quế Tường
[Dr. K.S. Lo] cống hiến, được biết dưới cái tên Trà Cụ Văn Vật Quán [Flagstaff
House Museum of Tea Ware, vốn là trạch đệ của viên tư lệnh lực lượng Anh tại
Hongkong, do đó có tên là Flagstaff House]. Có thể nói, chính viện bảo tàng này
đã đưa đến hứng thú cho thanh niên Ðài Loan và Trung Hoa, biến thú uống trà
thành một phong cách thay thế các ẩm liệu Tây phương đang chiếm lĩnh thị trường.
Người ta cũng tổ chức những
cuộc thi tài về nặn ấm. Lần đầu tiên thực hiện năm 1992 có 195 món hàng tham dự
và đưa ra những sáng tạo làm thay đổi hoàn toàn kỹ nghệ tử sa. Việc nặn ấm
không còn hạn chế trong các thợ đồ gốm mà trở thành một nghệ thuật phải huấn
luyện theo những trình tự nhất định, sau đó được cấp bằng và danh vị như những
ngành nghề nổi tiếng khác.
Cũng trong giai đoạn mà
thiên hạ đua nhau lùng kiếm ấm tốt, một số nghệ nhân chính gốc ở Nghi Hưng [Hoa
lục] nhận ra rằng nếu họ bỏ công làm một số ấm thật đẹp thì có thể chuyển ra
ngoài một cách bán chính thức, được giá hơn đồng lương chết đói mà xí nghiệp
[quốc doanh] trả cho họ. Thế là chẳng bao lâu dậy lên một phong trào tuồn những
ấm đẹp theo ngả Hongkong để đi ra những cộng đồng người Hoa ở khắp nơi. Theo thống
kê, những nhà sưu tập Ðài Loan đã thủ đắc được nhiều ấm quí với giá tương đối hời,
tương tự như mươi năm trước đây một số người Việt ở bên ngoài đã tìm mua được
nhiều đồ sứ, tranh quí trong nước với giá rất “phải chăng”, tạo thành một
đợt lùng mua cổ ngoạn.
Nghi thức uống trà cũng
thành cầu kỳ với nhiều định lệ mà trước đây chưa có. Vô số trà thất được thành
lập để làm chỗ tụ hội, trao đổi kiến thức và dĩ nhiên không thiếu việc bàn luận
kinh doanh. Chính cơn sốt đó đẩy kỹ nghệ làm ấm và buôn ấm lên gấp bội. Theo tiến
sĩ La Quế Tường, khi ông đến viếng thăm Nghi Hưng năm 1979, cả thành phố này chỉ
có chừng 400 đến 600 thợ làm ấm. Vậy mà chỉ mười năm sau, số thợ ở đây lên đến
10,000 người và đến nay chắc còn hơn nhiều lần nữa. Giá ấm cũng từ vài chục
cents nay lên đến hàng chục, hàng trăm dollars.
Hiện nay trên thị trường
có bán rất nhiều ấm giả cổ, hình dáng, con dấu ... được chế tạo rất tinh vi,
trông như thật. Tuy nhiên, theo một số chuyên gia về ấm, việc tìm được một chiếc
ấm cổ thật thiên nan vạn nan. Những chiếc ấm do các danh sư nặn nay đều nằm
trong viện bảo tàng và là sở hữu của một số người chơi đồ cổ kỳ cựu. Dù với giá
rất cao, chiếc ấm mà chúng ta mua được đa phần là đồ giả, trừ khi có rất nhiều
tiền còn người thường chẳng nên tìm kiếm mất công.[17]
Những nghệ danh Cung
Xuân, Thời Ðại Bân, Trần Minh Viễn, Huệ Mạnh Thần ... được khai quật và khá nhiều
ấm [dĩ nhiên không phải đồ thật] mang tên những hảo thủ này. Hàng nhái rất khéo,
khéo đến nỗi chính những người sành sỏi cũng nhầm, để hai chiếc một giả, một thật
vẫn không phân biệt được. Ấm được làm cũ đi bằng cách ngâm trong nước trà, phơi
nắng, vứt lăn lóc ngoài xó vườn, góc sân, hay chôn xuống đất, có khi còn gõ cho
mẻ một miếng để cho có vẻ thật. Ðó là chưa nói đến những tiểu xảo bịp bợm khác
rút ngắn thời gian nhanh hơn như bôi dầu nhớt, bồ hóng .... cho có vẻ cũ kỹ.
Ðể gia tăng độ cổ kính,
các chuyên gia cũng có nhiều cách tương đối “vương đạo” hơn như dùng máy
tôi, thổi lên ấm hơi nước trà li ti trong một thời gian để làm cao hay chuyển ấm
từ một nơi thật nóng nhúng vào nước trà rồi chuyển sang một nơi thật lạnh để ấm
hút tinh trà vào đất, gia tốc độ thẩm hương giống như một chiếc ấm dùng đã lâu.
Những chiếc ấm dùng trong thử thách này thường là ấm tốt, việc lão hoá chỉ là một
thủ thuật phụ để tăng trị giá thực của chiếc ấm chứ không nhằm mục đích đánh lừa
người mua.
Tuy nhiên, dù gì chăng nữa,
ấm tốt đến đâu cũng có giới hạn của nó. Những sự tích ly kỳ về ấm, về trà chỉ
nên coi là dật sự đem đến cho cái thú này một màu sắc văn hoá hoang đường hơn
là sự thật. Thế nhưng những dật sự đó đã biến một ngành thủ công nghệ tầm thường
thành một động lực thu hút người mua, đóng góp khá nhiều vào kinh tế khiến
Trung Hoa vươn được cánh tay ra khắp năm châu rồi đến nay thành một con bạch tuộc
trăm vòi, ở đâu cũng có.
ẤM NGHI HƯNG
Dưới thời Dân Quốc khi thế
chiến thứ II bùng nổ, ấm Nghi Hưng đã ngưng sản xuất cho tới sau khi Mao Trạch
Ðông chiếm được Hoa lục. Tuy kỹ nghệ nặn ấm được phục hồi [1953] nhưng thời
gian đầu do các hợp tác xã quản lý và hàng chỉ đóng dấu “Trung Quốc Nghi Hưng”
mà không đề tên người nặn, được sản xuất theo qui mô lớn cho đại chúng. Theo thời
gian và nhu cầu tiêu thụ, càng ngày hàng Nghi Hưng càng đa dạng cả phẩm lẫn lượng.
Từ khi hàng Trung Quốc
tràn ngập thị trường thế giới, ấm Nghi Hưng được tung ra rất nhiều, đâu đâu
cũng thấy bán với giá rẻ, có khi hàng lố. Ấm cũng thường bán nguyên cả bộ [bao
gồm ấm trà, ấm chuyên, chén và đĩa...] đặt trong hộp gỗ, lót vải mềm trông rất
mỹ thuật nhưng phẩm chất chỉ từ trung bình đến kém, ít khi có bộ nào đẹp. Theo
những nhà nghiên cứu, hiện nay đất chính gốc Nghi Hưng không còn nhiều, chỉ là
đất lấy từ các nơi khác, có khi pha trộn hoá chất. Duy nhất còn có đất tử sa để
làm ấm là công ty nổi tiếng Nghi Hưng Ðệ Nhất Xưởng vì họ làm chủ một mỏ đất vẫn
còn đang khai thác tại đây.[18]
Cũng nên nói rõ, tử sa
làm ấm không phải là đất sét như những loại đồ sứ thường mà là đá được nghiền
nát, qua một quá trình tinh luyện dài. Kỹ thuật ngày xưa chưa cao, chưa dùng
máy móc nên đá đào về phải đập nhỏ, nghiền bằng xe lăn do trâu kéo, giã bằng
tay rồi sàng lọc qua nhiều giai đoạn cho đến khi có thể dùng để nặn ấm.[19]
Thành thử ấm cũ [người ta gọi là nguyên khoáng] không thuần sắc, hạt thường lớn
vì chu trình chế tạo theo lối thủ công, chỉ ấm ngày nay dùng máy nghiền nên mới
mịn mặt. Tuy nhiên những ấm đất nổi hạt to, có lẫn những mảnh đá li ti [khác
màu] thường giá lại cao vì là đồ đất cũ, dùng nguyên liệu biến chế từ ngày xưa
nay còn lại, khác với loại ấm làm bằng đất mới, nhẵn và bóng. Ấm tử sa sau khi
nung rồi rất cứng có thể chịu được một lực ép thật cao, gõ lên thành tiếng kêu
thanh và cao như tiếng khánh. Bỏ ra ngoài yếu tố thời gian của những món đồ cổ,
về kỹ thuật cũng như mỹ thuật, ấm mới tốt và đẹp hơn [nếu chúng ta chọn loại
hàng có phẩm chất cao] mà giá cả lại rẻ hơn nhiều.
Chu nê
Đoạn
nê
Tử sa
ẤM ÐÀI LOAN
Trên thị trường hiện nay,
có thể nói rất khó mua được một chiếc ấm từ chính tay một nghệ sư nặn, mặc dù
nhiều nơi còn cung cấp thêm cả hình người thợ cầm chiếc ấm mình đã mua làm chứng
thư bảo đảm. Những chiếc ấm từ Hoa lục tuy có năm ba con dấu riêng nhưng rất ít
khi nào có những chữ viết tay của tác giả và thường không ghi niên đại hay thời
điểm làm ấm, bỏ ngỏ một chi tiết quan trọng mà người mua nào cũng muốn biết.
Riêng ấm Ðài Loan, những
chiếc ấm đắt tiền [không đắt như ấm cổ nhưng trong khoảng từ 100 đến 500 USD]
thì đều có những dòng chữ viết tay, ký tên tác giả và nhất là có cả năm làm ấm.
Ngày tháng [có khi đề theo dương lịch] giúp chúng ta biết chắc đã sở hữu chiếc ấm
đó được bao lâu, khỏi mất công đoán mò [mà đoán mò thường luôn luôn theo chiều
hướng có lợi cho mình] để rồi phải bẽ bàng khi thực tế không giống như kỳ vọng.
Những người nặn ấm ở Ðài Loan không được xếp hạng và chứng nhận của chính quyền
như tại Hoa lục [ở đại lục các ngành nghề đều do chính quyền quản lý] nhưng một
số cũng tạo được tiếng tăm khá lớn và những ấm mang chữ ký của họ đều được đánh
giá cao.
Theo nhiều nguồn tin, ấm
Trung Quốc bây giờ không còn dùng đất sét nguyên thuỷ mà pha chế nhiều thứ để
màu sắc thêm tươi đẹp, biết đâu chả có những kim loại độc hại? Ngược lại, ấm
Ðài Loan nay được áp dụng nhiều kỹ thuật mới, được nghiên cứu một cách khoa học,
đất sét pha độ dính nhiều nên có thể tạo được những chiếc ấm cầm nhẹ tênh,
thành rất mỏng tỏ lộ tài điêu luyện của nghệ nhân nên có những cám dỗ mà khó ai
diễn tả được.[20]
Ấm Ðài Loan giản dị, ít cầu
kỳ, nhưng luôn luôn tiện dụng. Trước đây hãng trà Thiên Nhân cũng vẽ nhiều kiểu
mới, có nét độc đáo riêng nhưng gần đây vì theo đuổi mục đích thương mại nên ấm
Thiên Nhân chỉ còn vào loại trung bình, tuy chắc chắn nhưng nặng nề, màu sắc
cũng u trệ, dùng lâu không lên nước làm mất đi cái thú của người uống trà. Ấm
trà Thiên Nhân là sản phẩm của hãng Lục Vũ [hình như Lục Vũ cũng thuộc công ti
Thiên Nhân], tuy không xô bồ nhưng ít loại thượng đẳng, nhiều kiểu mới nhưng
không có tính độc đáo. Cũng chính Thiên Nhân vẽ kiểu cho một số trà cụ và tiêu
chuẩn hoá một số định lệ nay đã trở nên thông dụng. Gần đây hãng Thiên Nhân đã
chuyển hướng sang bán các loại trà Hoa lục và ấm Nghi Hưng, tuy chiều được số
đông nhưng không còn giữ được danh tiếng cũ.
KẾT LUẬN
Ấm trà ngày nay đã trở
thành một món đồ gia dụng được nhiều người ưa chuộng. Trong tủ những gia đình
Việt Nam thường có một vài chiếc ấm Nghi Hưng xen với các loại đồ sứ của chủ
nhân. Ở nước ta hiện chưa có một viện bảo tàng chuyên về ấm đất nhưng trên thế
giới, nhất là tại những nơi đông người Trung Hoa, thì khá phổ thông. Ngoài Trà
Cụ Văn Vật Quán ở Hongkong, Hàng Châu Trà Khoa Quán ở Hàng Châu, Thiên Phúc Trà
Bác Quán ở Chương Châu [Trung Quốc], Tĩnh Cương Bác Vật Quán ở Nhật Bản và Bình
Lâm Trà Nghiệp Bác Vật Quán ở Ðài Loan là bốn viện bảo tàng nổi tiếng trên thế
giới.
Song song với sự phát triển
của mậu dịch toàn cầu, kỹ nghệ trà và ấm đã trở thành một khu vực kinh tế quan
trọng của một số quốc gia vùng Ðông Á. Riêng trong kỹ nghệ nặn và sản xuất ấm,
chỉ trong mươi năm, nhiều đợt cải tiến về cả hình dáng, màu sắc, chất liệu ...
tạo nên những thu hút trước đây chưa từng có. Ấm tốt làm tại Ðài Loan hiện nay
có hai hãng Tam Hy [三希] và Ðào Tác Phường [陶作坊]. Tam Hy chuyên về ấm đất loại cao đẳng còn Ðào Tác Phường thì bán nhiều
đồ sứ tráng men. Ðời Tống, đồ sứ Trung Hoa nổi tiếng với năm loại Nhữ, Quân,
Quan, Ca và Ðịnh Diêu [汝,鈞,官,哥,定窯] trong đó Nhữ Diêu[21]
màu xanh có ẩn màu lam là thượng phẩm mà cổ nhân đã ca tụng bằng hai câu thơ:
雨過天青雲破處
者般顏色作將來
Vũ quá
thiên thanh vân phá xứ,
Giả
bàn nhan sắc tác tương lai.
Sau trận mưa, ánh nắng xuyên qua đám mây
Mọi màu sắc đều xuất hiện ở món đồ sứ này
Trong nỗ lực cải tiến để
tìm kiếm sự độc đáo, Ðào Tác Phường nay đã tái tạo được nhữ diêu [nung ở nhiệt
độ 12700 C] và sản xuất những bộ đồ trà rất nhã nhưng vì giá thành
cao nên chỉ bán ra với số lượng nhỏ. Những bộ ấm này dùng một thời gian có những
vết rạn trông càng thêm cổ kính như một bằng chứng đánh dấu giao tình giữa đồ vật
với chủ nhân.
Những loại ấm chén theo
kiểu quân diêu, quan diêu, ca diêu, có khi pha trộn nhiều hình thức cũng được
ưa chuộng trong giới sưu tầm ấm chén. Tuy nhiên, phần đông các trà thủ vẫn
thích các loại ấm đất không tráng men kiểu cổ nên các ấm sứ vẫn chỉ chiếm một tỉ
lệ nhỏ trong sản xuất.
Ở nước ta, tuy uống
trà Tàu đã phổ biến trong giới thượng lưu từ thời Lê, thời Nguyễn nhưng đại đa
số quần chúng vẫn uống chè tươi, chè nụ, chè vối ... như trong tiểu thuyết thời
tiền chiến. Chỉ từ khi nhà văn Nguyễn Tuân đề cập đến trong một số truyện ngắn,
người nước ta mới quan tâm đến ấm trà bằng đất nung. Tuy nhiên, thú vui này
không mấy phổ biến nên ngay cả những người chơi đồ cổ khi nhắc đến ấm Nghi Hưng
cũng không chính xác.
Gần đây, trong nước đã xuất hiện một số câu lạc bộ uống trà, nâng thú thưởng ngoạn này lên hàng nghệ thuật để tạo một phong cách riêng. Có người còn thậm xưng thành một “văn hoá trà” của người Việt. Người viết chỉ nghe mà chưa được chứng kiến hay tham dự nên không dám lạm bàn.
Tháng 5 - 2010
Nguyễn Duy Chính
[1] Hiện nay có một số đồ sứ Nhật tái
tạo các trà cụ nhập cảng từ Việt Nam vài trăm năm trước để bán cho những người
sưu tập dưới cái tên Beni-Annam
[2] Nhật Bản Đích Trà Từ Khí (quyển XVI)
(Đông Kinh: Trung Ương Công Luận Xã, 1977) tr. 98
[3] Nếu ai muốn biết những chiếc ấm lạ
lùng trên thế giới xin đọc Garth Clark: The Artful Teapot (London:
Thames & Hudson Ltd., 2001)
[4] Ðể ý chữ sa [砂] trong tử sa người Trung Hoa viết với bộ thạch
là đá chứ không viết bằng bộ thuỷ [沙] như cát thường.
[5]
Đặc tính quan trọng nhất
của chu nê là khi đem nung, dung tích ấm sẽ co lại đáng kể so với ban đầu nên
việc nặn được nắp cho vừa với ấm là cả một công trình tính toán và may rủi. Có
nơi nói độ co rút lên đến 30% nhưng có lẽ không chính xác. Đất chu nê vì co nhiều
nên dễ nứt mà người ta bảo rằng thường thì ba chiếc ấm nặn thì khi nung xong chỉ
còn được một chiếc hoàn hảo. Cũng vì thế giá ấm chu nên cao hơn ấm thường nhiều.
[6] Chu nê
nay cũng được dùng cho một loại đất đỏ nguyên chất, có độ co rút cao khi nung,
thường đắt tiền.
[7] Trong một số cổ vật tìm thấy tại
những thuyền buôn bị đắm, khá nhiều ấm nhỏ kiểu “quả quít” được tìm thấy
chứng tỏ đây là một mặt hàng thông dụng được chở đi bán cho nước ngoài thời
Minh Thanh. Những ấm cổ sưu tập tại Thái Lan, Malaysia cũng có các kiểu ấm Lưu
Bội, Mạnh Thần có bịt vàng hay bạc theo sở thích của dân địa phương.
[8] Trích từ Nghi Hưng Tử Sa Từ Ðiển (2002),
tr. 152
[9] Gần đây, số lượng ấm Mạnh Thần được tìm thấy
khá nhiều, trong đó có một chiếc ấm màu vàng lớn dưới đáy viết “Ðại Minh Thiên
Khải Ðinh Mão Kinh Khê Huệ Mạnh Thần Chế” nên người ta mới biết ông họ Huệ người
đất Kinh Khê.
[10] Thuỷ bình về sau là tên gọi của
kiểu ấm nhỏ, thường là độc ẩm có thể nổi trong trà thuyền mà các cụ bảo rằng cân
nhau, không triềng.
[11] Ðồ giả mạo vì thế cũng hay làm cho sứt mẻ, có
khi làm vỡ rồi chắp lại cho ra vẻ cũ để đánh lừa người mua. Kỹ thuật làm cho
hàng cũ đi của người Tàu rất tinh vi và thiên biến vạn hoá. Xem thêm Hứa Dật Quần,
“Nghi Hưng hồ sơ thức nhập môn toả đàm” [宜興壺初識入門瑣談] phụ bản tạp chí Hồ Nghệ [Teapot] (壺藝) số 11, Ðài Loan 2008 và Trì Tông Hiến, chương
V “Danh Gia Hồ Quái Trạng Hiện Hình”, Tuyển Hảo Hồ Phao Hảo Trà, Hữu Nghị,
2005 tr. 107-29
[12] Christiaan J.A. Jorg, Michael
Flecker: Porcelain from the Vung Tau Wreck: The Hallstrom Excavation
(UK: Sun Tree Publishing Ltd, 2001) tr. 54-5
[13] Sái Vinh Chương (蔡榮章) trong Trà Ðạo Giáo Thất (茶道教室): Trung Quốc Trà Học Nhập Môn Cửu Ðường Khoá
(中國茶學入門九堂課) (Ðài Bắc:
Thiên Hạ Viễn Kiến, 2002) đã tổng hợp chín bài học cho người tập uống trà, viết
tương đối đầy đủ về các loại trà và nghi thức pha, uống để huấn luyện cho trà
nhân cũng như những ai muốn đi sâu vào ngành buôn bán trà cụ và trà liệu.
Tuy nhiên, vì trà được trồng ở nhiều vùng, mỗi vùng có một hay nhiều đặc
sản nên cũng tự phát triển một lối riêng cho địa phương mình. Ở Ðài Loan hiện
nay dùng hai chén đựng trà, một chén nhỏ mà cao, một chén rộng miệng. Khi rót,
người ta dùng chén hình ống trước, đổ ra chén lớn rồi dùng chén này như một loại
bình ngửi để thưởng thức hương trà.
[14] Nguỵ
Dã (960-1020) tự Trọng Tiên, hiệu Thảo Ðường Cư Sĩ người đất Thiểm Châu đời Bắc
Tống.
[15] Học
giả Trung Hoa hiện đại [1924-], chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng (Hồng Học)
[16] Trong các sưu tập của người Việt
mang màu sắc dân tộc, tôi thấy khá nhiều bộ “bình vôi” [lime pots], kế đó
là đồ sứ Chu Ðậu còn các loại đồ sứ khác thì hiếm hơn.
[17] Những chiếc ấm cũ có vẻ thật rao bán trên
internet thường được đấu với giá khá cao [thường là ấm thời Dân Quốc], người thắng
thường phải trả vài ba trăm trở lên, có mua cũng chẳng làm gì. Thỉnh thoảng tôi
cũng thấy một hai chiếc ấm có đề “Huệ Mạnh Thần chế” nhưng chắc chắn không
phải là do Huệ Mạnh Thần đời Minh làm ra mà là loại ấm thương mại chế theo kiểu
Mạnh Thần [cuối đời Thanh hay đời Dân Quốc]. Những ấm Mạnh Thần loại này thường
là chỉ vài chục năm thôi nhưng hình dáng và loại đất tử sa tương đối cũ, có trước
phong trào nặn ấm gần đây.
[18] Số mỏ
đá để có thể làm ấm không nhiều, phần lớn đã cạn kiệt. Mỗi mỏ phải đào sâu vào
trong núi và mỗi lớp đá dùng được chỉ chừng vài mét là cùng. Ấm của Ðệ Nhất Xưởng
thường được các danh thủ nặn riêng bán với giá khá cao cho những nhà sưu tập.
[19] Ấm
Nghi Hưng thường được xếp vào hạng stoneware chứ không phải clayware.
[20] Ðể khỏi lệ thuộc vào nguồn cung cấp từ Hoa lục,
các chuyên gia Ðài Loan đã nghiên cứu để áp dụng kỹ thuật cao vào việc pha trộn
và tìm kiếm nguyên liệu, nhất là phương pháp chế tạo từ Nhật Bản nên hiện nay kỹ
thuật làm ấm của Ðài Loan được đánh giá là cao hơn của Hoa lục. Một số tỉnh miền
Hoa Nam tiếp xúc nhiều với bên ngoài nên cũng phải chiều theo thị hiếu quần
chúng nên hiện nay nhiều ấm làm tại khu vực Quảng Châu, Hongkong cũng rất khéo,
tương tự như ấm của Ðài Loan.
[21] Theo truyền thuyết, nhữ diêu chỉ dành riêng
cho cung vua đời Tống, và về sau hiếm đến nỗi vua Càn Long đã phải nói là “ít
như sao buổi sớm”. Triều Tiên sau này có loại Koryo cũng có màu sắc tương tự.