SƠN TRÀ
山茶
(CAMELLIAS)
Yunnan Camellias of China
(phụ trang)
LỜI MỞ
ÐẦU
Stirling
Macoboy: The Illustrated Encyclopedia of Camellias, tr. 139
Văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX không thể
không nhắc đến Nguyễn Khuyến (1835-1909), người thường được biết dưới tên ông
Nghè Và hay Tam Nguyên Yên Ðổ. Ông người làng Yên Ðổ (Bình Lục, Hà Nam), đỗ đầu
trong cả ba kỳ thi Hương (1864), thi Hội (1871), thi Ðình (1871) nên mới gọi là
Tam Nguyên.
Tuy văn hay chữ tốt, vẫn tự hào mình là người
giỏi thơ nôm nhất thiên hạ nhưng từ trẻ mắt ông đã kèm nhèm. Về già khi bị lòa,
có người chơi khăm tặng ông một chậu hoa trà là giống hoa mà nhà nho thường chê
là hữu sắc, vô hương. Ông làm một bài thơ để cám ơn như sau:
Có khách cho ta một chậu trà,
Ðương say ta chẳng biết rằng hoa.
Da mồi tóc bạc ta già nhỉ,
Áo tía đai vàng bác đấy a?
Mưa nhỏ những khinh phường xỏ lá,
Gió to luống sợ lũ dơi già.
Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi,
Ðếch thấy hơi hương một tiếng khà.[1]
Cứ như thế, người
Việt cũng có tục trồng hoa trà tuy không phổ biến và cũng không dụng công như
những quốc gia khác. Trong Cây Cỏ Việt Nam, giáo sư Phạm Hoàng Hộ liệt
kê ra 24 giống hoa trà hiện hữu trên đất nước mình mặc dầu theo Stirling
Macoboy, có đến 30 loại trà hoa mọc hoang trên đất nước Việt Nam, liên hệ với
các giống C. sasanqua và C. oleifera. [2]
Trà hoa Việt Nam
(camellia vietnamensis) lá to 4 inches và hoa lớn khoảng 4.5 inches bao gồm
năm, sáu cánh màu trắng hay xanh nhạt. Tên một số hoa trà cũng gần gũi với những
địa danh ở Ðông Dương như camellia indochinensis hay camellia langbianensis.[3] Tuy nhiên những cây trà này hoa không to và
không đẹp như của nước ngoài vì người mình chưa tìm cách gây giống, lai tạo để
thành một loại cây cảnh độc đáo.
Yunnan Camellias of China,
tr. 141
LỊCH SỬ
Thời trung cổ, người Âu Tây không biết tới
hoa trà ngoài những lá trà khô đem từ Trung Hoa, Ấn Ðộ để uống như một loại nước
giải khát. Cái tên Camellia được chọn và công nhận là do tên của nhà thảo mộc học
(botanist) truyền giáo Dòng Tên (Jesuit) Georg Josef Kamel (hay Camellus,
1661-1706) người Moravia.
Kamel làm việc tại Philippines và từ trần
năm 1706. Tuy suốt đời nghiên cứu về cây cỏ, người ta ngờ rằng chính ông chưa từng
nhìn thấy một cây hoa trà nào và cũng chưa từng đặt chân đến Nhật Bản hay Trung
Hoa. Ông nổi tiếng chỉ vì đã in một phụ đính (appendix) trong một công trình của
Anh năm 1704.
Theo những tài liệu gần đây, sơn trà được một
y sĩ người Ðức tên là Andreas Cleyer nhắc đến đầu tiên và chính ông này đã đến
Nhật hai lần theo sứ bộ thương mại (1682-84 và 1685-87). Thông tin về loại cây
này có được là do những mẫu hoa khô của John Cunningham gửi từ Áo Môn và nhà thảo
mộc học James Petiver (1663-1718) thực hiện trong một đặc san của Hiệp Hội
Hoàng Gia (1702), đặt tên là “Thea chinensis”, còn hình vẽ thì xuất hiện trên đồ
bản XXXIII tập san Gazophylacii naturae et artis (1702-1709).
Tài liệu đầy đủ nhất về hoa trà chỉ được biết
đến khi một người Hoà Lan tên là Engelbert Kaempfer, y sĩ của công ty Dutch
East India, sống tại Nagasaki vào đầu thập niên 1690 viết gần hai trang rưỡi về
loại cây này trong Amoenitates Exoticarum (1712) dưới cái tên Nhật Bản
là Tsubakki (椿), có kèm cả hình vẽ. Hoa trà được phân thành ba loại Camellia
japonica, Camellia sasanqua và Camellia sinensis. Sau khi Kaempfer từ trần,
công trình và mẫu thực vật ông sưu tập vào tay một khoa học gia người Anh là
Sir Hans Sloane, người đã điều đình để dịch cuốn sách Lịch Sử nước Nhật
trong đó có cả minh hoạ hoa trà và nêu lên sự tương đồng với cây trà dùng để lấy
lá uống.
Robert Fortune
Stirling
Macoboy, tr. 238
Tên Camellia được chính thức dùng trong cuốn
Systema Natura năm 1735 của nhà thảo mộc học người Thụy Ðiển Linnaeus. Bức
tranh vẽ hoa trà là tranh màu nước của hoạ sĩ Ðức Georg Dionysius Ehret
(1708-1770) có ghi chú Camellia và cả tên Nhật Tsabekki (tức tsubakki hay
tsubaki) kèm theo chủng loại japonica để ghi nhận loài hoa này xuất xứ từ
Phù Tang tam đảo.
Năm 1745, trong một cuốn sách nhan đề A
natural history of birds của George Edwards, người ta thấy hình vẽ một con
công đậu trên cành hoa mà Edwards miêu tả là Chinese rose (hoa hồng Trung Hoa)
nhưng chính là một cây sơn trà Nhật Bản (Camellia japonica). Ðây là bức tranh
màu đầu tiên vẽ từ một mẫu thực (living specimen) được khắc bản tại Tây phương
và người ta suy đoán rằng cây hoa này phải được trồng ở bên Anh vài năm trước.
Hoa trà cũng còn được ghi nhận trong tạp
chí Botanical Magazine năm 1788 trong một bức tranh nhan đề Camellia Japonica của
William Curtis và trong An authentic account of an embassy from the King of
Britain to the Emperor of China (2 vols.) (London: G. Nicol, 1797) của Sir
George Staunton (1737 – 1801) ghi lại chuyến đi của phái bộ Earl Macartney sang
Trung Hoa năm 1792-94.
Hoa trà Vân Nam được
truyền ra ngoài như thế nào?
Cả một địa bàn rộng lớn Ðông Nam Á lẫn Nam
Trung Quốc là cái nôi của hoa trà, và tới nay người ta vẫn tìm thấy nhiều cây mọc
hoang nhiều hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Nhật Bản tuy không phải là nguyên
địa của hoa trà nhưng cũng đã biết đến rất sớm - vào khoảng thế kỷ thứ VII - và
cũng chính từ đây mà hoa này được truyền sang Âu Mỹ.
Cây hoa trà Nhật Bản đầu tiên trổ bông tại
Anh Quốc khoảng năm 1739 trong một nhà kính (glass-house) và đến năm 1760 thì
đã trồng được trong vườn thượng uyển của vua xứ Naples ở Caserta.
Mùa xuân năm 1826, trong một nhà kiếng ở
Kent người Âu châu được chứng kiến một cây sơn trà nở hoa lần đầu tiên. Cây hoa
đó do thuyền trưởng Richard Rawes thuộc công ty Ðông Ấn thuộc Anh (Bristish East
India Company) đem từ châu Á về và những chuyên gia đều công nhận rằng đó là những
bông hoa đẹp nhất trên đời. Nhà thảo mộc học John Lindley biết ngay đây là một
giống hoa trà mới thuộc về một loại khác với hoa trà Nhật Bản (Camellia
japonica) và đặt cho nó cái tên Camellia reticulata vì những gân rõ rệt ở
trên lá rồi được in trong Botanical Register năm 1827.
Một hình vẽ hoa Captain Rawes
khi mới nhập sang Âu Châu
Stirling
Macoboy, tr. 210
Thế nhưng theo tài liệu của Trung Hoa thì
không phải loại sơn trà này qua châu Âu theo đường Nhật Bản mà nằm trong một
sưu tập của một nhân viên của công ty Ðông Ấn tên là John Reeves kiếm ở Quảng
Ðông, đem về Anh và gây giống trong khoảng từ 1812 đến 1831. Thuyền trưởng
Rawes chỉ là người được ông này nhờ đem về Anh mà thôi.
Ngay từ cuối thế kỷ XVII thời Khang Hi, người
ta đã mang sang Nhật Bản một giống hoa trà cánh kép từ Vân Nam và được gọi dưới
cái tên To-Tsubaki (Ðường Thung - 唐椿) nghĩa là hoa trà
của nhà Ðường. Loại hoa này cũng chính là giống mà người ta mang sang Âu Châu rồi
gần đây lại nhập cảng ngược lại Vân Nam (vì giống này đã tuyệt chủng tại chính
quốc) dưới cái tên mới là Qui Hà (歸霞) hay Returned
Glory, đánh dấu sự quay về của một giống hoa đẹp. Giống hoa đó cũng được liệt
kê trong một cuốn sách Nhật nhan đề Chikinsho Furoku in năm 1733.
Giống sơn trà Camellia reticulata đầu tiên
đó được gọi tên là Captain Rawes giữ địa vị độc tôn suốt hai mươi năm cho đến
mãi 1847 mới có thêm một loại hoa khác do ông Robert Fortune đem về, cánh kép
màu đỏ sậm. Fortune làm việc cho Hiệp Hội Hoa Viên Hoàng Gia (Royal
Horticultural Society) và sưu tập các loài sơn trà khi ở Quảng Châu.
Cả hai loại hoa này không những yếu ớt hơn
các giống Camellia japonica lại chỉ có thể trồng bằng cách tháp cành (grafting)
thành thử chỉ hiện diện trong những nhà kính của giới quí tộc. Cho tới thế chiến
thứ II nghĩa là trong khoảng một trăm năm, hoa trà thuộc giống Camellia
reticulata ở các quốc gia Tây phương vẫn không ngoài hai loại Captain Rawes và
Robert Fortune.
Ðến năm 1938, người ta mới khám phá ra rằng
trong những đền đài miếu mạo ở Vân Nam có vô số giống Camellia reticulata và
còn nhiều cây hoa khác mọc hoang trên núi. Người Trung Hoa đã biết đến loại hoa
này từ lâu, trong sách vở đời Tuỳ (590-618 TL) đã viết về hoa trà. Tuy vậy thời
kỳ đó đang có chiến tranh nên không mấy ai quan tâm đến phát kiến này và chỉ đến
năm 1948 - sau khi thế chiến chấm dứt - nhà hoa viên học (horticulturist) người
California là Dr. Walter Lammerts mới đem được 11 chủng loại nữa từ Vân Nam về
và người Tây phương lúc này mới được thấy những bông hoa kiều diễm trước nay vẫn
náu mình trong núi rừng cô tịch ở phương nam Trung Hoa.
Thế nhưng những giống hoa đó vẫn khó gây giống
nên chỉ có thể tạo cây mới bằng cách tháp gốc (grafting) và cách giâm cành
(grow from cuttings) thì chỉ mới thành công gần đây. Các nhà trồng tỉa cũng pha
Camellia japonica với Camellia reticulata hay các giống khác.
Từ những cây mọc hoang, người ta tạo được đủ
màu từ hồng đến đỏ thẫm (khi đó chưa có thể lai tạo được hoa trà màu trắng) và các
giống hiện nay phong phú hơn những giống chính gốc Trung Hoa nhiều. Hoa trà Vân
Nam có cánh hoa cuộn và dợn sóng, không thẳng một cách đơn điệu như hoa trà Nhật
Bản, mặc dù theo mùa thì hoa trà Vân Nam thường nở sau hoa trà Nhật Bản. Sơn
trà Vân Nam mọc nhanh nhưng cũng như những giống hoa đầu tiên được mang về Mỹ,
tuy thích hợp ở một số khu vực tại Hoa Kỳ, Úc Ðại Lợi, Tân Tây Lan nhưng lại
không chịu những vùng rét.
Ngày nay, sơn trà không còn là một đặc sản
của Vân Nam mà hiện diện tại nhiều quốc gia, nhất là những vùng bán nhiệt đới
hay ôn đới. Hầu như cũng ít ai tìm hiểu về nguồn gốc và lịch sử của loài hoa.
TỪ TIỂU THUYẾT KIẾM HIỆP CỦA KIM DUNG ....
Trong Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung, hoa
trà đã được mô tả như một loại kỳ hoa, có gốc nở mười tám loại hoa đủ màu gọi
là Thập Bát Học Sĩ. Không ít người trong chúng ta ao ước được một lần nhìn tận
mắt giống cây quí hiếm này.
Sawada’s
Dream
Stirling
Macoboy: The Illustrated Encyclopedia of Camellias, tr. 174
... Vương phu nhân đưa Ðoàn Dự đi qua rừng hoa, qua một chiếc cầu đá, theo
một đường mòn đến trước một tòa tiểu lâu. Ðoàn Dự nhìn thấy dưới mái hiên có một
tấm biển viết ba chữ Vân Cẩm Lâu theo lối chữ triện màu xanh, dưới lầu trước
sau trái phải chỗ nào cũng toàn hoa trà cả. Có điều những giống này ở Ðại Lý chỉ
vào hạng ba hạng tư, nếu so với tòa tiểu lâu tinh mỹ này có phần không xứng.
Vương phu nhân vẻ mặt đắc ý, nói:
-
Ðoàn công tử, nước Ðại Lý của cậu hoa trà rất nhiều, nhưng nếu so sánh với của
ta chắc không thể bì kịp.
Ðoàn Dự
gật đầu:
-
Những hoa trà loại này dân Ðại Lý chúng tôi chẳng ai trồng cả.
Vương
phu nhân cười khanh khách:
-
Thật ư?
Ðoàn Dự
nói:
-
Những người dân quê mùa tầm thường ở Ðại Lý cũng biết các loại hoa này phẩm
chất kém cỏi, trồng chẳng cao sang gì.
Vương
phu nhân mặt biến sắc, giận dữ nói:
-
Ngươi nói sao? Ngươi bảo hoa trà ta trồng là loại tục phẩm ư? Nói như thế chẳng
hóa, chẳng hóa .... khinh người quá lắm.
Ðoàn Dự
nói:
-
Phu nhân tin hay không tin cũng tùy ở người.
Chàng vừa
nói vừa chỉ một cây hoa trà ngũ sắc trước lầu:
-
Giá thử như cây này, bà tưởng nó quí lắm ư. Hứ, đẹp thật, cái lan can này thật
là đẹp, thật là đẹp.
Chàng tấm
tắc khen cái lan can đẹp mà hoa thì chẳng nhắc đến một câu khác nào người xem
chữ viết, không nhắc đến chữ mà chỉ khen lấy khen để mực đen và giấy tốt.
Cây hoa
trà đó vừa trắng vừa đỏ, vừa tía vừa vàng, sắc hoa thật là rực rỡ, từ trước tới
nay Vương phu nhân vẫn coi là trân phẩm. Nay thấy Ðoàn Dự có vẻ xem thường nên
lông mày bà nhướng lên, mắt lộ sát ý. Ðoàn Dự nói:
-
Xin hỏi phu nhân, giống hoa này ở Giang Nam gọi tên là gì?
Vương
phu nhân hậm hực đáp:
-
Chúng tôi chẳng gọi tên gì đặc biệt, chỉ gọi là hoa trà Ngũ Sắc.
Ðoàn Dự
mỉm cười:
-
Ðại Lý chúng tôi có đặt cho nó một cái tên, gọi là Lạc Ðệ Tú Tài.[4]
Vương
phu nhân hừ một tiếng:
-
Cái tên sao khó nghe làm vậy, chắc ngươi tiện mồm đặt ra chứ gì. Cây hoa đẹp
đẽ như thế, sao lại giống gã thư sinh thi hỏng?
-
Phu nhân thử nhìn lại xem, cây hoa này cả thảy tất cả mấy màu.
Vương
phu nhân nói:
-
Ta đã đếm qua, cũng phải có đến mười lăm, mười sáu màu khác nhau.
Ðoàn Dự
nói:
-
Cả thảy đúng ra là mười bảy màu. Ðại Lý có một loại hoa quí giá nổi tiếng
tên gọi Thập Bát Học Sĩ. Ðó là thiên hạ cực phẩm, trên cây có đủ mười tám đóa
hoa, mỗi đóa một màu khác nhau, hồng thì toàn hồng, tía thì toàn tía, không một
mảy lẫn lộn. Nhưng cả mười tám đóa hoa mỗi đóa hình trạng khác nhau, mỗi đóa một
vẻ, nở thì cùng nở, tàn thì cùng tàn, phu nhân đã thấy bao giờ chưa?
Vương
phu nhân nghe qua thẫn thờ, lắc đầu:
-
Trên đời này lại có loại hoa như thế sao? Ðến nghe nói tới ta cũng chưa nghe
bao giờ.
Ðoàn Dự
nói:
-
So với Thập Bát Học Sĩ kém một mức là Thập Tam Thái Bảo là mười ba đóa hoa
khác nhau trên cùng một cây. Rồi đến Bát Tiên Quá Hải là tám đóa khác nhau một
cây. Thất Tiên Nữ là bảy đóa. Phong Trần Tam Hiệp là ba đóa. Nhị Kiều là một trắng
một đỏ hai đóa. Nói đến hoa trà là phải thuần sắc, nếu như trong đỏ có lẫn trắng,
trong trắng lẫn tía thì là hạ phẩm rồi.
Vương
phu nhân bỗng nhiên đờ đẫn, nhìn về xa xăm, nói một mình:
-
Sao y không nói cho ta biết nhỉ?
Ðoàn Dự
nói tiếp:
-
Trong Bát Tiên Quá Hải có cả hoa màu tía sậm và màu hồng nhạt, đó là Lý Thiết
Quài và Hà Tiên Cô, nếu thiếu hai màu đó, dù là tám màu khác nhau cũng không được
gọi là Bát Tiên Quá Hải mà gọi là Bát Bảo Trang, tuy cũng là danh chủng nhưng
so với Bát Tiên Quá Hải còn thua một bậc.
Vương
phu nhân nói:
-
Nguyên lai như thế.
Ðoàn Dự
lại tiếp:
-
Trở lại Phong Trần Tam Hiệp cũng có chính phẩm và phó phẩm. Nếu là chính phẩm,
trong ba đóa thì đóa màu tía phải to nhất, đó là Cầu Nhiêm Khách, đóa màu trắng
nhỏ hơn, đó là Lý Tịnh, đóa màu hồng nhỏ nhất nhưng cũng kiều diễm nhất đó là Hồng
Phất Nữ. Nếu như hoa màu hồng lại to hơn hoa màu tía, hoa màu trắng thì là phó
phẩm, hai đằng một trời một vực.
Người ta
đã bảo quen thuộc như đồ trong nhà mình. Trong nhà Ðoàn Dự có tất cả những loại
này nên chàng nói ra vanh vách đâu ra đấy. Vương phu nhân nghe thật thích thú
thở dài:
-
Ðến phó phẩm ta cũng chưa được nhìn qua nói gì chính phẩm !
Ðoàn Dự
chỉ vào cây hoa trà ngũ sắc nói:
-
Còn loại
hoa trà này, nếu luận về sắc so với Thập Bát Học Sĩ còn kém một, lại không thuần,
nở thì khi sớm khi muộn, hoa thì đóa nhỏ đóa to. Chẳng khác gì Ðông Thi giả
nhăn mặt, học đòi làm Thập Bát Học Sĩ thì không xong, có khác gì rượu xoàng uống
chua như giấm. Vì thế chúng tôi đặt cho cái tên Lạc Ðệ Tú Tài.
Vương phu nhân không nhịn được bật cười
nói:
-
Cái tên ấy sao vừa chanh chua, vừa khắc bạc, hẳn là do đám nho sinh đặt ra.
Ðến lúc
này, Vương phu nhân đã mười phần tin tưởng vào sự thành thục về các loại trà
hoa của Ðoàn Dự bèn dẫn chàng lên trên Vân Cẩm Lâu. Ðoàn Dự thấy trên lầu trần
thiết sang trọng đẹp đẽ, giữa là một bức trung đường vẽ cảnh khổng tước khai
bình, hai bên là hai câu đối trên viết:
漆葉雲差密,
茶花雪妬妍。
Tất diệp vân sai mật,
Trà hoa tuyết đố nghiên
Lá rậm xem chừng mây khó kịp
Hoa tươi quả thực tuyết ghen thầm
Chẳng
bao lâu tiệc rượu bắt đầu, Vương phu nhân mời Ðoàn Dự ngồi bên trên, còn mình
ngồi bên dưới để bồi tiếp. Những món ăn trong tiệc hôm nay thật khác xa bữa tiệc
A Châu, A Bích khoản đãi. Những món ăn hai cô a hoàn thanh nhã là chính trong
những món thật tầm thường có ẩn những nét tinh xảo công phu. Bữa tiệc ở Vân Cẩm
Lâu hôm nay thì lại chủ về hào hoa trân quí, nào là bàn tay gấu, vây cá đều
toàn những món cực kỳ sang trọng. Thế nhưng Ðoàn Dự sinh trưởng nơi chốn đế
vương, những món quí báu đến mấy cũng đã nếm qua nên lại thấy bữa tiệc ở Mạn Ðà
Sơn Trang so ra kém xa ở nơi Cầm Vận Tiểu Trúc.
Rượu được
ba tuần, Vương phu nhân hỏi:
-
Họ Ðoàn Ðại Lý là thế gia trong võ lâm, cớ sao công tử không tập võ?
Ðoàn Dự
đáp:
-
Người họ Ðoàn ở Ðại Lý đông lắm, con cháu hoàng tộc tông thất thì đều có tập,
còn như vãn sinh là dân dã tầm thường thì làm gì biết võ công.
Chàng
nghĩ mình sống chết ở trong tay người, bệ rạc như thế, thật chẳng nên thổ lộ
chân tướng gia thế làm gì để khỏi làm giảm uy danh của bá phụ và gia gia. Vương
phu nhân hỏi tiếp:
-
Công tử con nhà bách tính tầm thường hay sao?
Ðoàn Dự
đáp:
-
Vâng!
Vương
phu nhân hỏi tiếp:
-
Thế công tử có biết được người nào họ Ðoàn trong hoàng thất hay không?
Ðoàn Dự
một mực chối phăng:
-
Tuyệt nhiên không biết.
Vương
phu nhân đờ đẫn hồi lâu rồi xoay qua đề tài khác, nói:
-
Mới đây được công tử đàm luận về các phẩm chủng hoa trà, khiến cho ta như được
vén đám mây mù, nhìn thấy trời cao. Bốn chậu bạch trà lần này kiếm được, kẻ trồng
hoa trong thành Tô Châu bảo là Mãn Nguyệt, công tử lại bảo một chậu là Hồng
Trang Tố Lý, còn một chậu là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm, làm thế nào phân biệt, xin
nói cho rõ, được chăng?
Ðoàn Dự
đáp:
-
Cây hoa trắng lớn nhưng lấm tấm có chấm đen kia thì gọi là Mãn Nguyệt. Những
vệt đen đó là cành quế nơi cung trăng. Cây hoa cánh trắng có hai đốm hình quả
trám màu đen kia tên gọi là Nhãn Nhi Mị [5].
Vương
phu nhân mừng quá nói:
-
Cái tên đó nghe thật hay.
Ðoàn Dự
nói tiếp:
-
Cánh hoa trắng nhưng có lẩn sắc đỏ tên gọi là Hồng Trang Tố Lý. Còn cánh trắng
nhưng có quầng mầu xanh, thêm vạch mờ mờ màu đỏ thì gọi là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm.
Thế nhưng nếu những vạch đỏ đó có nhiều thì lại không còn là Trảo Phá Mỹ Nhân
Kiểm nữa mà là Ỷ Lan Kiều [6].
Phu nhân thử nghĩ xem, đã là mỹ nhân thì phải ôn tĩnh nhàn nhã, trên mặt thỉnh
thoảng bị sước một đường hẳn là khi chải đầu soi gương vô tình cào phải mặt, hoặc
giả không phải do mình thì cũng chỉ chơi đùa với con anh vũ, bị chim quẹt trúng
âu cũng là chuyện thường. Thành thử vết chàm trên cánh hoa kia không thể không
có, đó là lông chim vương phải. Còn như nếu đầy mặt chỗ nào cũng tươm máu thì
nàng con gái đẹp kia hẳn đã đánh nhau với ai, như thế còn gọi là đẹp nỗi gì?
(Thiên Long Bát Bộ, quyển 2 tr 495-498, bản dịch Nguyễn Duy
Chính)
ÐẾN THỰC TẾ ....
Các chủng loại
Theo Stirling Macoboy trong cuốn Toàn
Thư về Trà Hoa – The Illustrated Encyclopedia of Camellias (Oregon: Timber
Press, 1998) thì trà hoa có đến 42 chủng loại (species) và mỗi loại lại có nhiều
giống (varieties) khác nhau.
Các giống sơn trà được nhiều người biết đến
thường có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới (subtropical) tại Ðông
và Nam Á Châu - chủ yếu là Trung Hoa, Hải Nam, Ðài Loan và Ðông Nam Á – thuộc họ
nhà trà (tea plant) có cái tên khoa học la Theaceae, cây xanh lá quanh năm
(evergreen), mọc thấp, cao khoảng 3 đến 4 thước, thân trơn, lá bóng (glossy)
hình bầu dục hoặc hơi tròn, cạnh có răng cưa. Hoa mọc ở trên đầu cành hay nẩy
ngang lá có thể đỏ, trắng, vàng, tía ...
Các
loại cánh hoa
1:
hình kèn 2: hình hoa mộc lan 3: hình hoa sen 4: hình dợn sóng
5:
hình cánh bướm 6: hình hoa hồng 7: hình tia đồng tâm 8: hình mẫu đơn
Yunnan Camellias of China,
tr. 25
Họ Theaceae chia ra khoảng chừng 16 phân
chi trong đó Camellia là phân chi duy nhất được trồng làm cây cảnh. Tuy nhiên
Camellia cũng có rất nhiều nhánh khác nhau, mỗi nhánh có một số đặc tính chuyên
biệt, chẳng hạn như loại C. vietnamensis ở Ðông Dương thì có khoảng 30 giống.
Chỉ có một vài loại đặc biệt mọc trên các vùng núi cao Hi Mã Lạp Sơn, Nepal và
Sikkim và riêng loại C. lanceolata thì mọc tại bán đảo Mã Lai.[7] Tuy nhiên, phần lớn những giống
hoa đó là những cây mọc hoang, chỉ xuất hiện trong sách về thảo mộc mà không phải
là những loại hoa được gây trồng, lai tạo nhằm mục đích ra hoa.
Ðại
Lý Trà
Yunnan Camellias of China,
tr. 98
Trong những loại sơn trà được trồng để làm
cảnh, thông dụng và đa dạng hơn cả là Camellia japonica Lind. (Nhật Bản sơn trà
- 日本山茶), Camellia reticulata Lindl. (Vân Nam sơn trà - 雲南山茶), Camellia sasanqua Thumb (trà mai - 茶梅), Camellia petelotii
Sealy (kim hoa trà - 金花茶), Camellia chrysantha Tuyama (cúc trà - 菊茶), Camellia pitardii Cohen Stuart (tây nam sơn trà - 西南山茶), Camellia Saluenensis Stapf ex Bean (Nộ Giang sơn trà - 怒江山茶), Camellia hiemalis Nakai (đông hồng sơn trà - 冬紅山茶) và Camellia forrestii Cohen Stuart (Mông Tự liên nhị trà - 蒙自連蕊茶).
Tuy nhiên, hầu hết các sách vở chỉ nhấn mạnh
đến hai giống hoa chính:
- Camellia japonica là những giống hoa trà mà
người Tây Phương gây giống từ các cây hoa ở Nhật Bản (nhưng thực ra cũng có gốc
từ lục địa).
- Camellia reticulata là các loài hoa trà
nguyên thuỷ từ Vân Nam, Trung Hoa.
Trong bài này, chúng tôi chỉ đề cập sơ qua
về Camellia japonica và chú trọng nhiều hơn đến Camellia reticulata
là loại sơn trà mà người Trung Hoa coi như một đặc sản của họ. Những chủng loại
đó đến nay một số vẫn chưa phổ biến ra ngoài mặc dù với phương pháp trồng tỉa
và gây giống tân kỳ, số lượng các loại sơn trà trên thế giới vượt xa số sơn trà
hiện hữu tại Trung Hoa và nhiều giống mới còn rực rỡ hơn sơn trà tại Vân Nam.
Chủ điểm của nghiên cứu này cũng để tìm câu trả lời về những loại kỳ hoa mà Kim
Dung đã miêu tả.
Camellia
chrysantha
Yunnan Camellias of China,
tr. 135
Camellia japonica
Camellia japonica Linn. thường được gọi là
sơn trà (Nhật Bản), còn có tên là hải lựu, hải thạch lựu, ngọc mính, nại đông,
xuyên trà, mạn đà la (曼陀羅), tẩu xuân (藪春), sơn thung (山椿), dương trà ... Những nghiên cứu mới đây cũng khẳng định có đến 75%
các giống hoa trà Nhật Bản nguồn gốc từ Trung Hoa. Người ta còn gọi Camellia japonica
là hoa trà cổ điển vì đây là giống hoa người Âu Châu trồng trong một thời gian
dài khi chưa ai biết đến những giống sơn trà khác ở Vân Nam.
Người Âu Châu khi sang Trung Hoa cũng gặp
giống sơn trà Camellia japonica trồng ở nhiều nơi phía nam sông Dương Tử (Trường
giang) như Chiết Giang, Quảng Tây, Quảng Ðông, Phúc Kiến, Vân Nam, Tứ Xuyên và
một số tỉnh bắc Trường Giang như Sơn Ðông, An Huy, Giang Tây. Thành thử họ vẫn
nghĩ sơn trà chỉ có một giống này mà thôi.
Camellia japonica là loại sơn trà đa dạng
nhất – có đến 30,000 cultivars (dùng phương pháp thảo mộc học để biến hoá) mà
không một loại cây cỏ nào sánh kịp. Sơn trà Nhật Bản cũng to nhỏ khác biệt, có
giống chỉ nhỏ chừng 4 cm nhưng cũng có loại lớn bằng cái tô, đủ các hình dáng
và màu sắc, có thể mọc tại nhiều vùng khí hậu, từ bán nhiệt đới (subtropical)
như Ðài Loan đến những nơi lạnh buốt ở bắc Trung Hoa. Hầu hết sách vở viết về
sơn trà của Tây phương đều dành cho Camellia japonica một chú trọng đặc biệt,
coi như phần bộ chính yếu.
Sandy
Sue
Stirling
Macoboy: The Illustrated Encyclopedia of Camellias, tr. 174
Khi truyền qua Nhật Bản, vì nở vào cuối mùa
đông lại màu sắc rực rỡ nên người Nhật đã biến sơn trà thành một trong những biểu
trưng (emblem) của đất nước họ, mang những đặc tính của thần Thái Dương
(Goddess of the Sun). Ðền thờ Thái Dương thần nữ ở Ise nằm giữa một rừng sơn
trà và hoàng đế Nhật Bản khi hành lễ nghinh xuân cũng dùng một cành hoa trà.
Gỗ cây trà khi đốn xuống cũng được dùng
trong những vật dụng khá đặc biệt và dầu trà (tsubaki oil) lấy từ hột rất được
ưa thích và quí trọng.
Tuy được biết đến từ thế kỷ thứ VII nhưng
sơn trà chỉ thực sự phổ thông và được người Nhật ưa chuộng từ thời đại
Muromachi (1333-1568). Chính từ thời này, hoa trà được trồng và tỉa xén, gây giống
để trở thành một ưa chuộng đặc biệt cho thi nhân, hiệp sĩ.
Khi nước Nhật thoát ra khỏi vòng bế quan toả
cảng để tiếp nhận văn minh Tây phương, người ta lại quay sang những giống hoa từ
bên ngoài (chẳng hạn như hoa hồng) khiến sơn trà bị rơi vào quên lãng. Tới gần
đây, hoa trà lại được khôi phục và nhờ vào những kỹ thuật mới, nhiều loại
(cultivars) mới được thêm vào và loài hoa quí tộc này lại trở thành quốc bảo,
cũng như được trọng vọng như nghệ thuật uống trà của xứ Phù Tang.
Macoboy bảo rằng nếu ai thấy hoa trà Nhật Bản
chưa đủ để thoả mãn thì quả là người khó tính (hard to please).
Camellia reticulata hay Ðiền trà
冷絕爭春喜爛然,
山茶按譜甲于滇。
樹頭萬朵齊吞火,
殘雪燒紅半個天。
釋普荷 (明)
Lãnh tuyệt tranh xuân hỉ lạn nhiên,
Sơn trà án phổ giáp vu Ðiền.
Thụ đầu vạn đoá tề thôn hoả,
Tàn tuyết thiêu hồng bán cá thiên.
Hết lạnh chào xuân bừng hỉ khí,
Sơn trà nổi tiếng khắp vùng Ðiền.
Tàn cây sáng rực như bùng lửa,
Một trời đua nở vạn hoa chen.
Thích Phổ Hà
Liễu
Diệp Ngân Hồng
Yunnan Camellias of China,
tr. 47
Camellia reticulata Lindley cao từ 5 đến 10
mét, cành lá xum xê, hoa lớn chịu được lạnh, còn được gọi dưới những tên Ðiền
Sơn Trà (Ðiền là tên thường gọi của đất Vân Nam), Nam Sơn Trà (Southern
Mountain Camellia), Hải Thạch Lựu (Pomegranate of the Sea), Hồng Sơn Trà, Ðăng
Hoa ... Chính vì có nhiều giống đẹp nên loại hoa trà này được cổ nhân ưa chuộng
và đặt ra nhiều truyền thuyết thần kỳ.
Hoa trà được trồng từ hơn 1300 năm trước,
thịnh hành vào khoảng thời Tuỳ Ðường và trở nên thông dụng vào thời Tống,
Nguyên, Minh nhưng vẫn chỉ thu hẹp trong phạm vi địa phương. Mãi đến thế kỷ thứ
XIX, cái tên hoa trà Vân Nam (Yunnan camellia hay Camellia reticulata Lindley)
mới được đặt tên và thế giới biết tiếng.
Sơn trà mọc nhiều nhất ở vùng nam và tây
nam Trung Hoa - chủ yếu là ở Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Ðông - và càng xa trung
tâm càng thưa dần. Vân Nam nằm ở tây nam Trung Hoa, là một khu vực nhiều núi
non, lắm sông ngòi, ghềnh thác trên nhiều độ cao khác nhau, mưa nhiều và khí hậu
thay đổi tuỳ địa phương. Chính vì thế cây cỏ vùng Vân Nam phong phú, nhiều loại
thảo mộc và thú hoang rất giống với vùng núi non ở tây bắc nước ta.
Sơn trà là loại cây ưa bóng râm, thích hợp
nơi những khu rừng lá to bản (broadleaf), xanh quanh năm (evergreen) ở vùng bán
nhiệt đới (subtropical zone). Qua một thời gian dài tự pha giống và thay đổi tự
nhiên theo điều kiện sinh sống, nhiều chủng loại nảy sinh và phong phú đủ màu sắc.
Cho đến nay, riêng tại Trung Hoa người ta biết có ít nhất 500 loại trong 30
nhóm khác nhau, trong đó riêng họ Camellia đã có bốn chi bao gồm hơn 200 loại.
Còn loại Theaceae thì khoảng 90% mọc tại vùng tây nam nước Tàu.
Hoa trà Vân Nam được liệt vào một trong mười
loại hoa chính của Trung Hoa và được nhiều người trồng làm cây cảnh. Những loại
sơn trà thông dụng nhất có Bồ Môn (蒲門), Tịnh An (靖安), Ngân Hồng Ðiệp Sí (銀紅蝶翅), Tuyết Kiều (雪嬌), Hồng Mã Não (紅瑪瑙), Hận Thiên Cao (恨天高), Mẫu Ðơn Trà (牡丹茶), Ngân Phấn Triều
Dương (銀粉朝陽) ...[8] Riêng Camellia petelotii
(Merr.) Sealy, với tên Trung Hoa là Kim Hoa Trà (金花茶), màu vàng sáp, mọc
trong rừng tỉnh Quảng Tây nơi độ cao từ 75 đến 300 mét và được ban mỹ danh Kim
Sắc Hoàng Hậu (Golden Queen).
Người Trung Hoa vẫn tự hào hoa trà của họ đứng
đầu thế giới và đặt cho đất Vân Nam cái tên “Treasurehouse of the plant
kingdom”. Trong số 120 chủng loại vẫn được coi là thổ sản của Trung Hoa thì
66 giống đã truyền ra bên ngoài mà nhiều nhất là qua Mỹ (50 loại), kế đến là Nhật
Bản (9 loại), New Zealand (4 loại)[9]. Những giống đó lại được các
nhà thảo mộc học Tây phương lai tạo khiến cho ngày hôm nay số lượng (đã được đặt
tên) lên đến trên 5000 loại khác nhau. Người Trung Hoa cũng nhập cảng lại một số
giống đẹp từ bên ngoài mà họ chưa có.
Tuy không còn độc tôn về hình dáng và màu sắc
của sơn trà, người Trung Hoa vẫn tự hào về một điểm mà các quốc gia khác không
thể có được. Trong thành thị cũng như trên các rừng núi hoang vu ở Vân Nam người
ta còn tìm thấy nhiều cây cổ thụ, có cây đến 5, 600 năm đánh dấu thời kỳ các tầng
lớp quí tộc ưa chuộng loại hoa rực rỡ này.
Ngọc
Mẫu Ðơn
Camellias of China, tr.
136
Hiện nay trên thế giới có nhiều vườn hoa
trà với đủ mọi giống mới và cũ nơi những vùng khí hậu ấm áp tại Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Pháp, Ý, Tân Tây Lan và Úc Ðại Lợi. Riêng tại nam California, chúng ta có thể
thưởng ngoạn hoa trà, hoa lan, hoa hồng vào cuối mùa đông và đầu mùa xuân. Vườn
hoa trà tại Huntington Library, thành phố San Marino có đủ mọi giống chính trên
thế giới, là một thắng cảnh quyến rũ nhiều du khách.
Hoa trà Vân Nam trong sách vở
惊醒唐梅睜眼倦
襯陪宋柏倍姿雄
郭沫若
Kinh tỉnh Ðường
mai tranh nhãn quyện,
Sấn bồi Tống
bách bội tư hùng.
Quách Mạt
Nhược
Mai Ðường trợn mắt khi choàng tỉnh,
Bách Tống thua xa đến bội phần.
Tại Trung Hoa, sơn trà trước kia có tên là
hải lựu (海榴), đã được người ta trồng từ đời Ðường nhưng từ đời Tống trở về sau
cái tên sơn trà mới trở nên thông dụng. Trong các sách Toàn Phương Bị Toå
(全芳備祖) của Trần Cảnh Nghi (陳景沂), Bản Thảo Cương Mục (本草綱目) của Lý Thời Trân (李時珍) đời Minh, Hoa Sử (花史) của Ngô Ngạn Khuông (吳彥匡), Hoa Sớ (花疏) của Vương Thế Mậu (王世懋), Quần Phương Phổ (群芳譜) của Vương Tượng Tấn (王象晉) ... đều đã có viết
rất kỹ lưỡng về hoa trà kể cả vẽ hình, phân loại, công dụng và cách trồng. Hoa
trà cũng là một đề tài được văn nhân ca tụng và ngâm vịnh.
Ðời Ðường, thi nhân Trương Tịch (張籍) (khoảng 767 – 830) thích sơn trà đến nỗi định đổi một người thiếp lấy
một cây hoa.
Từ đời Tống, việc giao lưu giữa các quốc
gia miền Nam và trung nguyên tương đối phát triển nên trong văn chương đã ít
nhiều nhắc đến hoa trà. Câu thơ của Dương Vạn Lý (楊萬里) (1124-1206 TL) mà nhiều người nhắc đến “ngộ
khanh tu tuý đảo” (gặp khanh – tức hoa trà – ta say sưa như muốn
ngã) nói lên tính chất si mê của nhà thơ với loại hoa kiều diễm này.
Qua đời Minh, nước Trung Hoa kế thừa lãnh
thổ của nhà Nguyên nên bao gồm cả Ðại Lý, người Hán di cư và sang buôn bán khá đông
nên hoa trà đã thành thông dụng. Vương Thế Mậu[10]
(王世懋) (1536–1588) viết trong Hoa Sớ (花疏): “Sơn trà còn quí hơn châu báu. Hoa trà Tứ Xuyên là một loại
hoa lớn, đỏ rực rỡ có nhiều cánh. Vân Nam là nơi nổi tiếng về giống hoa này”.
Họ Vương cũng viết trong Mân Sớ (閩疏): “Sơn trà Vân Nam màu tươi hơn và cũng quyến rũ hơn châu
trà. Hoa to hơn cái bát, cánh hoa xếp chồng lên nhau đẹp không kém gì mẫu đơn”.
Theo Trà Hoa Bách Ngâm Thi của Ðặng
Mỹ (鄧渼), một bài thơ vào thế kỷ XVI thì hoa trà chỉ được biết đến trong văn
chương vào khoảng đời Ðường vì một lý do dễ hiểu – hoa trà là thổ sản của nước
Ðại Lý, một khu vực ngoài Trung Quốc. Chính vì thế, trong một thời gian khá
lâu, ngoài các sắc dân địa phương, người ngoài ít ai biết đến loại hoa đẹp đẽ
này và trong lịch sử Trung Hoa cũng không thấy nhắc đến. Ông viết:
Ðiền trà
ở khắp nơi, rất nhiều chủng loại, có đến 72 giống... Quả là kỳ quan của trời đất,
một phẩm vật cực kỳ mỹ lệ ...
Ðặng Mỹ viết hai bài thơ ca tụng hoa trà – Trà
Hoa Bách Ngâm Thi đã nhắc ở trên và Thập Ðức nói về 10 đức tính của
hoa trà:
-
Thứ nhất là quyến rũ mà không lẳng lơ,
-
Thứ nhì là trường thọ, có những cây đã 2 – 300 năm mà trông như mới trồng,
-
Thứ ba là thân cao vút, có khi cao tới 17 mét,
-
Thứ tư là vỏ cây sẫm và ẩm trông như đồ cổ,
-
Thứ năm là cành cây uốn khúc như con rồng,
-
Thứ sáu là rễ cây có hình dáng lạ lùng trông như bức bình phong,
-
Thứ bảy là lá rậm như màn che,
-
Thứ tám là chịu được sương tuyết và xanh lá quanh năm,
-
Thứ chín là hoa nở vào những thời kỳ khác nhau và kéo dài đến tận cuối tháng
hai,
-
Thứ mười là hoa trà cắt xuống để trong bình có thể kéo dài được mười ngày.
Hoa còn nụ cũng nở.
Sách Tiềm Xác Loại Thư (潛确類書) viết:
Sơn trà
có mấy loại nhưng Ðiền trà là hạng nhất, lớn bằng cái bát, đỏ như máu, giữa vum
lên như mào con hạc.
Sử Cẩn (史謹) đời Minh Hồng Võ
trong bài thơ Cung Trúc Tự Khán Sơn Trà (筇竹寺看 山茶)ca ngợi:
雪後園林張繡幄,
雨余顏色醉丹砂。
Tuyết hậu
viên lâm trương tú ác,
Vũ dư nhan sắc
tuý đơn sa.
Sau tuyết trong vườn treo trướng gấm,
Mưa xong một vẻ đỏ như son.
Bài Sơn Trà Hoa (山茶花) của Dương Thận (楊慎) (1487-1559) đời Vạn Lịch nổi tiếng với những
câu sau đây:
黃蜂粉蝶不曾來。
海邊珠樹無顏色,
羞把瓊枝照玉臺。
Lục diệp hồng
anh đẩu tuyết khai,
Hoàng phong
phấn điệp bất tằng lai.
Hải biên
châu thụ vô nhan sắc,
Tu bả quỳnh
chi chiếu ngọc đài.
Lá xanh bông thắm giữa trời tuyết,
Ong vàng bướm trắng chưa kịp vọc.
Cây báu góc biển đâu sánh bằng,
Cốt sao cành biếc rọi đài ngọc.
Ngoài ra ông cũng ca tụng hoa trà trong bài
Ðiền Nam Nguyệt Tiết Từ (滇南月節詞) :
正月滇南春光好,
山茶處處齊開了;
艷李妖桃都壓倒。
裝點好,
園林處處紅雲島。
Chính nguyệt
Ðiền Nam xuân quang hảo,
Sơn trà xứ xứ
tề khai liễu;
Diễm lý yêu
đào đô áp đảo.
Trang điểm hảo,
Viên lâm xứ
xứ hồng vân đảo.
Tháng giêng xuân đất Ðiền Nam,
Sơn trà muôn vẻ nở tràn khắp nơi.
Dù cho đào lả mận lơi,
Cũng chưa sánh được một nơi hoa trà.
Vườn cây trang điểm muôn nhà,
Phủ lên những cụm
mây sa đỏ hồng.
Lý Thời Trân (李時珍), nhà thảo dược học đời Minh trong Bản Thảo Cương Mục viết về
sơn trà như sau:
山茶產南方。樹生。高者丈許。枝幹交加。葉頗似茶葉。而厚硬有稜。中闊頭尖。面綠背淡。深冬開花。紅瓣黃蕊。
Sơn trà sản nam phương. Thụ sinh. Cao giả
trượng hứa. Chi cán giao gia. Diệp phả tự trà diệp. Nhi hậu ngạnh hữu lăng.
Trung khoát đầu tiêm. Diện lục bối đạm. Thâm đông khai hoa. Hồng biện hoàng nhuỵ.
Sơn trà
là thổ sản của phương nam, cây cao đến hơn một trượng (khoảng 3.3 mét). Cành
cây và lá đan vào nhau. Lá trông giống như lá trà, nhưng dày và cứng cáp hơn.
Lá bầu ở giữa, nhọn trên đầu, trên màu xanh thẫm, dưới nhạt hơn. Sơn trà nở hoa
vào cuối mùa đông, cánh hoa đỏ nhuỵ màu vàng.
Ðịa lý gia Từ Hoằng Tổ [11]
(徐弘祖) (1586 – 1641) viết trong Ðiền Trung Hoa Mộc Ký (滇中花木記):
Hoa thảo
vùng Vân Nam đều đặc biệt nhất là sơn trà và đỗ quyên (rhododendrons).
Vương Tượng Tấn (王象晉) trong Quần Phương Phổ (群芳譜) viết:
Sơn trà
còn gọi là Mạn Ðà La có thể cao đến hơn một trượng. Những giống thấp cao cũng
hai, ba thước (khoảng 1m). Cành đan chéo nhau, lá trông giống như mộc tê chúc
(osmanthus - 木犀屬). Lá cứng có răng cưa, hơi dày,
ở giữa khoảng 3 cm, chiều dài khoảng 10 cm. Hai đầu đều nhọn. Lá màu xanh thẫm ở
trên và nhạt hơn ở dưới, không rụng về mùa đông. Không những lá trông giống là
trà mà nếu nấu lên làm thức uống thì củng gọi là trà. Hoa sơn trà có nhiều loại,
mùa ra hoa từ tháng 10 đến tháng 2. Có một loại tên là Hạc Ðính Trà to như hoa
sen, đỏ như máu. Giống đó gốc chính ở Vân Nam nên còn gọi là Vân Nam sơn trà
... Bảo Châu Trà cây đầy những nụ, khi hoa nở mấy tháng sau, trông đỏ rực và rất
đáng yêu. Chúng tôi nghe nói có những cây cổ trà cao đến 10 mét ở Vân Nam mỗi lần
ra cả nghìn bông hoa, đẹp hơn mẫu đơn. Quả thực quyến rũ không sao tả được ...
Cuối đời Minh, nhà thơ Ðảm Ðương (擔當) tức nhà sư Thích Phổ Hà ca tụng hoa trà, trong thơ có hai câu:
樹頭萬朵齊吞火,
殘雪燒紅半個天。
Thụ đầu vạn
đoá tề thôn hoả,
Tàn tuyết
thiêu hồng bán cá thiên.
Tàn cây
sáng rực như bùng lửa,
Một trời
đua nở vạn hoa chen.
Sang đời Thanh thơ văn ca tụng sơn trà càng
nhiều. Bộ sách quan trọng nhất là Vân Nam Thông Chí (雲南通志) của Nguyễn Nguyên (阮元) và Vân Nam Bị Trưng Chí (雲南備徵志) của Vương Tùng (王崧) năm 1831, Ðiền Hải Ngu Hoành Chí (滇海虞 衡志) của Ðàn Tuỵ ( 檀萃) năm 1896 đều có chép về sơn trà.
Sau cách mạng Tân Hợi 1911, bộ sách Ðiền
Nam Trà Hoa Tiểu Chí (滇南茶花小志) của Phương Thụ Mai (方樹梅) gồm ba quyển ghi chép rất nhiều văn thơ viết về sơn trà từ đời Minh,
trong đó cũng ghi 72 danh chủng, nhiều loại còn trồng ở Vân Nam như Sư Tử Ðầu,
Bảo Châu Trà, Mẫu Ðơn Trà, Tử Bào, Hận Thiên Cao ...
Ngày nay, hơn 100 danh chủng sơn trà Vân
Nam đã được sưu tầm và trồng nơi các công viên tại nhiều thành phố lớn như Bắc
Kinh, Vũ Hán, Thượng Hải, Hàng Châu, Quảng Châu, Quế Dương ...Hai kỳ triển lãm
qui mô năm 1954 và 1963 của chính quyền Trung Quốc tại Côn Minh đã trưng bày
hơn 2000 chậu hoa đủ mọi loại.
Quách Mạt Nhược, một thi sĩ nổi tiếng của Trung Hoa đầu thế kỷ XX khi
đến Vân Nam đã cảm tác một bài thơ như sau:
艷說茶花是省花,
今來始見滿城霞。
人人都道牡丹好,
我道牡丹不及茶。
Diễm thuyết trà hoa thị tỉnh hoa,
Kim lai thủy kiến mãn thành hà.
Nhân nhân đô đạo mẫu đơn hảo,
Ngã đạo mẫu đơn bất cập trà.
Vẫn tưởng hoa trà ưa kẻ chợ,
Ðến nay mới thấy khắp mọi thôn,
Mẫu đơn ai nấy đều ca tụng,
So với hoa trà liệu đã hơn.
Các cổ thụ
Người Trung Hoa có câu: “Hoa trà Vân Nam là loại hoa hiếm và quí nhất thiên hạ”
và hiện nay người ta vẫn tìm thấy những cây cổ thụ. Theo thống kê sơ khởi, trên
toàn cõi Trung Hoa hiện nay còn khoảng hơn 200 cây trên 100 tuổi - trong rừng
sâu cũng như nơi đền chùa, miếu mạo, công viên và nhà dân - hằng năm vẫn ra
hoa, thu hút du khách. Những loại cổ thụ đó không giống như hoa trà chúng ta trồng
trong vườn.[12]
Riêng tại Vân Nam, Côn Minh từ trước tới
nay vẫn được coi là trung tâm của chính trị, văn hoá và kinh tế. Ngoài Côn
Minh, cổ thành Ðại Lý ở phía tây Vân Nam cũng là một trung tâm của các danh chủng
hoa trà.
Vạn
Ðoá Trà, cây cổ thụ 500 tuổi
Yunnan Camellias of China,
tr. 6
Theo tài liệu trong Yunnan Camelias of China (từ trang 7 đến 9) thì tại Vân Nam còn những cây cổ thụ sau đây:
1/ Sư Tử
Ðầu
Ðây là loại thông dụng nhất thời xưa, được
trồng không phải chỉ ở Côn Minh mà ở cà các vùng lân cận như Tấn Ninh (晉寧), An Ninh (安寧), Võ Ðịnh (武定), Nghi Lương (宜良) ... Huyện An Ninh, có hai cây Sư Tử Ðầu cao 7 mét, tàn xoè ra rộng tới
20 mét vuông và gốc cây khoảng 37 cm, ước độ 600 tuổi và một cây khác cao 10
mét, tàn rộng 54 mét vuông, thân dưới gốc 60 cm không biết có từ thời nào. Ở
phía bắc huyện Côn Minh có hai cây tương truyền đã trên một thế kỷ.
2/ Tùng
Tử Lân
Ở Vân Nam, nơi chùa Bàn Long, Tấn Ninh cũng
còn một cây tùng tử lân (松子鱗) cao 10 mét, thân 52 cm đã hơn 600 tuổi nhưng vẫn
nở đầy hoa màu hồng chẳng khác gì một đám mây buổi sáng. Trước đây ở phía tây
Côn Minh còn một cây nữa tương truyền do chính tay vua Kiến Văn nhà Minh trồng
nhưng khi cây này chết năm 1961, các nhà thảo mộc học đo các vòng tăng trưởng
thì chỉ mới 129 năm.
3/ Mẫu
Ðơn Trà
Tại huyện Nghi Lương có một cây cao 4 mét,
đường kính 55 cm tương truyền trồng từ đời Thanh nhưng vì không chăm sóc kỹ lưỡng
nên đã chết.
4/ Tảo
Ðào Hồng
Hiện nay còn một cây trồng trong công viên
Hắc Long Ðàm ở Côn Minh cao 10 mét, đường kính 50 cm nghe nói đã trên 200 năm.
5/ Hậu
Diệp Ðiệp Sí
Ở Golden Palace tây bắc Côn Minh còn một
cây cao hơn 10 mét, thân 50 cm tương truyền trồng từ đời Minh.
6/ Ma Diệp
Ngân Hồng
Một cây trồng ở tu viện Bàn Long, huyện Tấn
Ninh tương truyền trồng đời Nguyên, nay đã trên 600 tuổi. Cây cao 10 mét, thân
38 cm. Ðịa lý gia nổi tiếng đời Minh là Từ Hoằng Tổ cho là hai cây cổ thụ Tùng
Tử Lân và Ma Diệp Ngân Hồng tại tu viện Bàn Long là hai cây đẹp nhất Vân Nam.
7/ Tử
Bào
Một cây khoảng 200 năm trồng tại bắc Côn
Minh nhưng đã chết năm 1953.
8/ Liễu
Diệp Ngân Hồng
Tại Hắc Long Ðàm có một cây 200 năm nhưng
cũng đã chết.
9/ Bảo
Châu Trà
Tại huyện Phượng Khánh có một cây khổng lồ
hơn 100 năm.
10/ Phượng
Sơn Trà
Một cây tại huyện Phượng Khánh khoảng 8, 90
năm.
11/ Bồ
Môn Trà
Tại tu viện Qunyue có vài cây trên 100 tuổi.
12/ Tĩnh
An Trà
Tại tu viện Tĩnh An, huyện Nghi Lương có một
cây cao 7, 8 mét, thân 25 cm chừng hơn 100 tuổi.
13/ Ðại
Lý Trà
Huyện Ðằng Xung có vài cây trên 100 tuổi.
14/ Vạn
Ðoá Trà
Ở Ngọc Phong Tự tại Lệ Giang có một cây khổng lồ nghe nói trên 500
năm, thân chia làm hai nhánh mỗi nhánh 50 cm. Thân chính chu vi 123 cm. Tần
Nhân Xương, một thực vật gia Trung Hoa đã nói:
Vua các
loài trà trên thế giới là ở Trung Hoa, vua các loài trà của Trung Hoa là ở Vân
Nam, vua các loài trà của Vân Nam là hoa trà ở Lệ Giang.
HOA TRÀ VÂN NAM
|
Hán Việt |
Tên Trung Hoa |
Hán tự |
Anh ngữ |
Nước truyền qua đầu tiên |
1 |
Bảo châu trà |
Baozhucha |
寶珠茶 |
Red Jewellery |
Australia |
2 |
Bảo ngọc hồng |
Baoyuhong |
寶玉紅 |
Precious Jade Red |
USA |
3 |
Bảo thạch hoa |
Baoshihua |
寶石花 |
Jewel Flower |
USA |
4 |
Bích ngọc |
Biyu |
碧玉 |
Flushea White Jade |
|
5 |
Bình biện Ðại Lý trà |
Pinbandalicha |
平瓣大理茶 |
Flat Petal Dali Camellia |
Japan |
6 |
Bồ môn trà |
Pumencha |
蒲門茶 |
Pumen Camellia |
|
7 |
Cẩm bào hồng |
Jinpaohong |
錦袍紅 |
Brocade Gown Red |
USA |
8 |
Chu sa tử bào |
Zhushazipao |
朱砂紫袍 |
Cinnabar Purple Gown |
USA |
9 |
Côn Minh xuân |
Kunmingchun |
昆明春 |
Kunming Spring |
Japan |
10 |
Cửu tâm tử bào |
Jiuxinzipao |
九心紫袍 |
Nine Hearts Purple Gown |
|
11 |
Cung phấn |
Gongfen |
宮粉 |
Pink Palace |
|
12 |
Cúc biện |
Juban |
菊瓣 |
Chrysanthemum Petal |
USA |
13 |
Dương hồng tú cầu |
Yanghongxiuqiu |
洋紅繡球 |
Carmin Ball |
|
14 |
Hận thiên cao |
Hentiangao |
恨天高 |
Dwarf Rose |
Japan |
15 |
Hậu diệp điệp sí |
Houyediechi |
厚葉蝶翅 |
|
|
16 |
Hỉ nghinh xuân |
Xiyinchun |
喜迎春 |
Joyful Welcoming Spring |
|
17 |
Hạc đính hồng |
Hedinghong |
鶴頂紅 |
Stork Crest Red |
USA |
18 |
Hoa diệp bảo châu |
Huayebaozhu |
花葉寶珠 |
Variegated Leaf Jewellery |
|
19 |
Hồng bảo thạch |
Hongbaoshi |
紅寶石 |
Red Jade |
|
20 |
Hồng hà |
Hongxia |
紅霞 |
Red Cloud |
USA |
21 |
Hồng kim linh |
Hongjinling |
紅金翎 |
Redish Gold Wing |
|
22 |
Hồng mai |
Hongmei |
紅梅 |
Crimson Mume |
|
23 |
Hồng ngũ tâm |
Hongwuxin |
紅五心 |
Crimson Five Heart |
|
24 |
Hồng oản trà |
Hongwancha |
紅碗茶 |
Red-bowl Camellia |
Japan |
25 |
Khánh khẩu |
Qingkou |
罄口 |
Empty Mouth |
USA |
26 |
Khúc biện đào hồng |
Qubantaohong |
曲瓣桃紅 |
Rolling Crimson |
|
27 |
Kim nhuỵ phù dung |
Jinruifurong |
金蕊芙蓉 |
Golden Stamened Hibicus |
USA |
28 |
Kim
tâm bảo châu |
Jinxinbaozhu |
金心寶珠 |
Golden
Heart Jewellery |
USA |
29 |
Kim tâm đại hồng |
Jinxindahong |
金心大紅 |
Golden Heart Scarlet |
|
30 |
Liên nhuỵ |
Lianrui |
連蕊 |
Double Bowl |
USA |
31 |
Liên phiến thác châu |
Lianpiantuozhu |
蓮片托珠 |
Lotus Petal Supporting a Pearl |
|
32 |
Liễu diệp ngân hồng |
Liuyeyinhong |
柳葉銀紅 |
Willow Leaf Spinel Pink |
USA |
33 |
Lượng diệp ngân hồng |
Liangyeyinhong |
亮葉銀紅 |
Glossy Pink |
USA |
34 |
Lục giác hận thiên cao |
Liujiaohentiangao |
六角恨天高 |
Hexangular Dwarf Rose |
|
35 |
Ma diệp đào hồng |
Mayetaohong |
麻葉桃紅 |
Reticulate Leaf Crimson |
USA |
36 |
Ma diệp ngân hồng |
Mayeyinhong |
麻葉銀紅 |
Reticulate Leaf Spinel |
USA |
37 |
Mẫu đơn trà |
Mudancha |
牡丹茶 |
Peony Camellia |
USA |
38 |
Mai hồng ngũ sí |
Meihongwuchi |
玫紅五翅 |
Plum Color Fivewing |
|
39 |
Mai hồng quế diệp |
Meihongguiye |
玫紅桂葉 |
Rosy Osmanthus Leaf |
Japan |
40 |
Mã não cúc biện |
Manaojuban |
瑪瑙菊瓣 |
Cornelian Rose |
USA |
41 |
Mã não tử bào |
Manaozipao |
瑪瑙紫袍 |
Cornelian Purple Gown |
USA |
42 |
Ðại hồng bào |
Dahongpao |
大紅袍 |
Bright Red Gown |
USA |
43 |
Ðại kim tuệ |
Dajinsui |
大金穗 |
Large Golden Tassel |
|
44 |
Ðại Lý điệp sí |
Dalidiechi |
大理蝶翅 |
Dali Butterfly Wings |
USA |
45 |
Ðại Lý trà |
Dalicha |
大理茶 |
Dali Camellia |
USA |
46 |
Ðại mã não |
Damanao |
大瑪瑙 |
Large Cornelian |
USA |
47 |
Ðại đào hồng |
Dataohong |
大桃紅 |
Large Crimson |
USA |
48 |
Ðại ngân hồng |
Dayinhong |
大銀紅 |
Large Spinel Pink |
USA |
49 |
Ðại quế diệp |
Daguiye |
大桂葉 |
Large Osmanthus Leaf |
New Zealand |
50 |
Ðại vân phiến |
Dayunpian |
大雲片 |
|
|
51 |
Ðạm đại hồng |
Dandahong |
淡大紅 |
Pale Spinel Pink |
USA |
52 |
Ðào hồng bảo châu |
Taohongbaozhu |
桃紅寶珠 |
Pink Jewel |
|
53 |
Ðào hồng mẫu đơn |
Taohongmudan |
桃紅牡丹 |
Crimson Peony |
|
54 |
Ðào hồng triều dương |
Taohongzhaoyang |
桃紅朝陽 |
Crimson Morning Light |
|
55 |
Ðào hồng tú cầu |
Taohongxiuqiu |
桃紅繡球 |
Crimson Ball |
|
56 |
Ngân hà hoa |
Yinhehua |
銀荷花 |
|
|
57 |
Ngân hồng điệp sí |
Yinhongdiechi |
銀紅蝶翅 |
Spinel Pink Butterfly Wing |
USA |
58 |
Ngân hồng sư tử |
Yinhongshizi |
銀紅獅子 |
Spinel Pink Lion |
|
59 |
Ngân phấn mẫu đơn |
Yinfenmudan |
銀粉牡丹 |
Spinel Pink Peony |
USA |
60 |
Nghinh xuân hồng |
Yingchunhong |
迎春紅 |
Welcoming Spring |
Japan |
61 |
Ngọc lan trà |
Yulancha |
玉蘭茶 |
Magnolia Camellia |
USA |
62 |
Ngọc đái hồng |
Yudaihong |
玉帶紅 |
Jade Striped Red |
USA |
63 |
Ngọc sư tử |
Yushizi |
玉獅子 |
Crimson Lion |
|
64 |
Ngu mỹ nhân |
Yumeiren |
虞美人 |
Crimson Corn Poppy |
|
65 |
Nhất phẩm hồng |
Yipinhong |
一品紅 |
First Class Crimson |
Japan |
66 |
Nhị kiều |
Erqiao |
二嬌 |
Beauty Twin |
|
67 |
Ðinh hương hồng |
Dingxianghong |
丁香紅 |
Lilac Red |
USA |
68 |
Ðộc tâm Ðại Lý trà |
Duxindalicha |
獨心大理茶 |
Single Heart Dali Camellia |
|
69 |
Ðộc tâm ngân hồng |
Duxinyinhong |
獨心銀紅 |
Single Heart Spinel Pink |
|
70 |
Ðộc tâm điệp sí |
Duxindiechi |
獨心蝶翅 |
Single Heart Butterfly Wings |
USA |
71 |
Ðồng tử diện |
Tongzimian |
童子面 |
Baby Face |
USA |
72 |
Noãn diệp ngân hồng |
Luanyeyinhong |
卵葉銀紅 |
Ovate Leaf Spinel Pink |
USA |
73 |
Ðoàn diệp điệp sí |
Tuanyediechi |
團葉蝶翅 |
Round Leaf Butterfly Wing |
|
74 |
Phấn hồ điệp |
Fenhudie |
粉蝴蝶 |
Pink Butterfly |
USA |
75 |
Phấn hồng điệp sí |
Fenhongdiechi |
粉紅蝶翅 |
Light Pink Butterfly Wing |
USA |
76 |
Phấn hồng tinh |
Fenhongxing |
粉紅星 |
Light Pink Star |
|
77 |
Phấn đan |
Fendan |
粉丹 |
Sunset Glory |
|
78 |
Phấn nga kiều |
Fenejiao |
粉娥嬌 |
Pink Pretty |
USA |
79 |
Phấn ngọc |
Fenyu |
粉玉 |
Pink Jade |
|
80 |
Phấn ngọc lan |
Fenyulan |
粉玉蘭 |
Pink Magnolia |
|
81 |
Phấn thông thảo |
Fentongcao |
粉通草 |
Pink Chrysanthemum Petal |
|
82 |
Phấn triêu vân |
Fenzhaoyun |
粉朝雲 |
|
|
83 |
Phi hà |
Feixia |
飛霞 |
Flying Cloud |
|
84 |
Phong sơn trà |
Fengshancha |
風山茶 |
Fengshan Camellia |
USA |
85 |
Quế diệp dương hồng |
Guiyeyanghong |
桂葉洋紅 |
Osmanthus leaf Carmine |
USA |
86 |
Qui hà |
Guixia |
歸霞 |
Captain Rawes |
Japan |
87 |
Quyển biện mẫu đơn |
Juanbanmudan |
卷瓣牡丹 |
Rolled Petal Peony |
|
88 |
Quyển biện điệp sí |
Juanbandiechi |
卷瓣蝶翅 |
Rolling Butterfly Wing |
|
89 |
Sư tử đầu |
Shizitou |
獅子頭 |
Lion’s Head |
Japan |
90 |
Tảo mẫu đơn |
Zaomudan |
早牡丹 |
Early Peony |
New Zealand |
91 |
Tảo đào hồng |
Zaotaohong |
早桃紅 |
Early Crimson |
New Zealand |
92 |
Tế quế diệp |
Xiguiye |
細桂葉 |
Narrow Osmanthus Leaf |
USA |
93 |
Thái ngọc |
Caiyu |
彩玉 |
Beautiful Jade |
|
94 |
Thuỷ phù dung |
Shuifurong |
水芙蓉 |
Pink Hibiscus |
|
95 |
Tiêm diệp đào hồng |
Jianyetaohong |
尖葉桃紅 |
Pointed Leaf Crimson |
USA |
96 |
Tiên diệp trà |
Xianyecha |
仙葉茶 |
Fairy Leaf Camellia |
|
97 |
Tiểu diệp mẫu đơn |
Xiaoyemudan |
小葉牡丹 |
Small Leaf Peony |
USA |
98 |
Tiểu diệp ngân điệp |
Xiaoyeyindie |
小葉銀蝶 |
Small Leaf Spinel Pink |
|
99 |
Tiểu đào hồng |
Xiaotaohong |
小桃紅 |
Small Crimson |
|
100 |
Tiểu ngân hồng |
Xiaoyinhong |
小銀紅 |
Small Pink |
|
101 |
Tiêu ngọc lan |
Qiaoyulan |
俏玉蘭 |
Pretty Magnolia |
|
102 |
Tiểu ngọc lan |
Xiaoyulan |
小玉蘭 |
Small Magnolia |
USA |
103 |
Tiểu quế diệp |
Xiaoguiye |
小桂葉 |
Small Osmanthus Leaf |
USA |
104 |
Tống xuân qui |
Songchungui |
送春歸 |
Farawell To Spring |
|
105 |
Tĩnh an trà |
Jingancha |
靖安茶 |
Jingan Camellia |
USA |
106 |
Tử bào |
Zipao |
紫袍 |
Purple Gown |
USA |
107 |
Trại cúc biện |
Saijuban |
賽菊瓣 |
Superior Chrysanthemum Petal |
USA |
108 |
Trại mẫu đơn |
Saimudan |
賽牡丹 |
Superior Peony |
USA |
109 |
Trại đào hồng |
Saitaohong |
賽桃紅 |
Super Crimson |
USA |
110 |
Trại phù dung |
Saifurong |
賽芙蓉 |
Superior Hibiscus |
|
111 |
Triêu hà |
Zhaoxia |
朝霞 |
Morning Cloud |
|
112 |
Trương gia trà |
Zhangjiacha |
張家茶 |
Chang’s Camellia |
New Zealand |
113 |
Tùng tử lân |
Songzilin |
松子鱗 |
Pine Cone Scale |
England |
114 |
Tùng tử xác |
Songzike |
松子殼 |
Pine Nut Shell |
Japan |
115 |
Tuyết tán đào hoa |
Xuesataohua |
雪撒桃花 |
Snow Flake on Peach Blossom |
|
116 |
Tuý kiều hồng |
Zuijiaohong |
醉嬌紅 |
Charming Drunk Red |
USA |
117 |
Vân hoa trà |
Yunhuacha |
雲華茶 |
Yunhua Camellia |
|
118 |
Vạn đoá trà |
Wandoucha |
萬朵茶 |
Ten Thousand Flower Camellia |
|
119 |
Vãn xuân hồng |
Wanchunhong |
晚春紅 |
Late Spring Red |
|
120 |
Xuân chi luyến |
Chunzhilian |
春之戀 |
Spring Love |
|
KẾT LUẬN
Tuy gần đây người Trung Hoa cố gắng đề cao
và khẳng định nước Tàu là nguyên địa của loài hoa này nhưng hoa trà không phải
là giống hoa được đề cập đến nhiều nhất, cũng không phổ thông như hoa cúc, hoa
lan, hoa sen, hoa mẫu đơn ...
Về tượng trưng, hoa cúc là loài hoa đạm bạc,
thanh cao, mẫu đơn là vua của muôn hoa (nổi tiếng về câu truyện truyền kỳ Nữ
Hoàng Truyền Chỉ Trăm Hoa Nở, vì không tuân lệnh Võ Tắc Thiên nên bị đày xuống
Giang Nam), thuỷ tiên, hoa mai là hoa của mùa xuân ... còn sơn trà hầu như ít
ai biết đến. Hoa trà gắn liền với cái tên sơn trà hay nam sơn trà dường như gần
gũi với các dân tộc miền núi nhất là các sắc tộc vùng Vân Nam. Những thần kỳ về
hoa trà mà chúng ta đọc được trong Thiên Long Bát Bộ thực ra chỉ là tưởng tượng
của Kim Dung để cho câu truyện thêm độc đáo.
Trên thực tế, bất cứ giống hoa trà nào cũng
thuần chủng, cho ra cùng một loại hoa, tuy có khác nhau về hình dáng, màu sắc,
thời gian nhưng không có thể cho ra nhiều loại trên cùng một gốc. Tuy nhiên, nếu
một nghệ nhân có tài di hoa tiếp mộc, tháp nhiều cành trên một cây, rất có thể
có những cây ra nhiều màu hoa khác nhau. Nhiều chuyên gia cho rằng sơn trà mang
tính chất vương giả hơn hoa hồng vì hoa trà thuần chất nên đã đặt cho nó cái
tên Ðông Hoa Nữ Vương (Queen of the Winter Flowers).
Nguyễn Duy Chính
Tháng 8, 2005
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---
1. Bàng, Kim Hổ, Phùng Chí Châu, Chu Bảo Hoa,
Quách Sĩ Khâm (龐金虎,馮志舟 ,朱寶華,郭士欽). Trung Quốc
Trà Hoa 中國茶花 (Camellias of China). Beijing: The China Esperanto Press
(Trung Quốc Thế Giới Ngữ Xuất Bản Xã) 1995
2. China Cartographic Publishing House. Atlas
of the People’s Republic of China. (中華人民共和國地圖集) Beijing: Foreign
Languages Press, 1989.
3. Dư, Gia Hoa (余嘉華). Vân Nam Phong
Vật Chí (雲南風物志). Côn Minh: Vân Nam Nhân Dân xb xã, 1982.
4. Kim Dung (金庸): Thiên Long
Bát Bộ (天龍八部) (5 cuốn) Viễn Ảnh xb sự nghiệp công ty, 1981.
5. Kunming Institute of Botany Academia
Sinica. Yunnan Camellias of China. Beijing: Science Press, 1986.
6. Lý Thời Trân (李時珍) soạn, Cam Vĩ Tùng (甘偉松) tăng đính. Bản Thảo Cương Mục (本草綱目) (bộ 3 cuốn). Ðài Bắc: Hoằng Nghiệp Thư Cục, 1985.
7. Macoboy, Stirling. The Illustrated
Encyclopedia of Camellias. Oregon: Timber Press, Inc. 1998.
8. Ortho Books. All about Azaleas,
Camellias & Rhododendrons. San Francisco: Chevron Chemical Co., 1985.
9. Phạm Hoàng Hộ. Cây Cỏ Việt Nam (ba
quyển, sáu tập). Montréal, 1999.
10. Sunset Books and Sunset Magazine. Azaleas, Rhododendrons,
Camellias. California: Lane Publishing Co., 1982
11. Sunset Books and Sunset Magazine. How to grow and use
Camellias 5th Printing. California: Lane Magazine, 1971.
12. Trần Trung Viên (sao lục) Văn đàn bảo giám I & II
(nguyên bản Văn Học Tùng Thư 1926) Calif: Ðại Nam, không đề năm.
13. Trịnh Thiên Ðĩnh 鄭天挺 (chủ biên). Trung
Quốc Lịch Sử Ðại Từ Ðiển 中國曆史 大辭典 (2 cuốn). Thượng Hải: Thượng Hải Từ Thư xb xã,
2000.
[1] Trần Trung Viên (sao lục): Văn
đàn bảo giám I & II (nguyên bản Văn Học Tùng Thư 1926) (Calif: Ðại Nam,
không đề năm) tr. 37
[2] Vietnamensis: This is a species from
Vietnam, as the name suggests, but then around 30 other species of Camellia
occur wild in Vietnam. It is very closely related to C. sasanqua and C.
oleifera, being distinguished by its larger leaves, frequently over 4 in/10 cm
long, and flowers, up to 41/2 in/11 cm in diameter with 5-6 well
separated petals that are white or slightly green-flushed. Growing to small
tree size, it makes an attractive garden plant. Stirling Macoboy, The
Illustrated Encyclopedia of Camellias (Oregon: Timber Press, 1998) tr. 23
[3] Phạm Hoàng Hộ, Cây Cỏ Việt Nam
1991 tr. 527-537
[4] 落第秀才, thư sinh thi hỏng
[5] 眼兒媚, mắt đưa tình, mắt đắm đuối
[6] 倚欄嬌, người con gái đẹp tựa vào lan can
[7] Macoboy: sđd tr. 13
[8] Bàng Kim Hổ: Trung Quốc Trà Hoa
(Camellias of China) (Bắc Kinh: Trung Quốc thế giới ngữ xb xã, 1995) tr. 12
[9] Appendix III: List of Yunnan
Camellia Cultivars, Kunming Institute of Botany Academia Sinica, Yunnan
Camellias of China (Beijing: Science Press, 1986) tr. 163-6
[10] danh sĩ đời Gia Tĩnh, em của Vương
Thế Trinh, thích nghiên cứu về cây cỏ và cách trồng tỉa.
[11] tự Chấn Chi (振之), hiệu Hà Khách (霞客) người Giang Tô, là một học giả
thích du khảo đi nhiều và ghi chép rất kỹ lưỡng những nơi ông đặt chân đến, soạn
thành sách Hà Khách Du Ký.
[12] Ở Thanh Ðảo, tỉnh Sơn Ðông nơi Hạ
Thanh Cung còn một cây trà hoa thuộc loại Nại Ðông Trà (耐冬茶) tương truyền do Trương Tam Phong trồng
thời Vĩnh Lạc (1403-1424) đời Minh. Cây trà này khoảng 600 tuổi, cao 8.9 mét,
thân cây hơn 1 mét. Ở Sở Hùng, trên núi Tử Khê độ cao 2300 mét cũng có một cây
hoa cổ thụ, ghép hai giống Tử Khê (Zixi Camellia) và Ðồng Tử Diện (Baby Face
Camellia) trên cùng một gốc, tính ra cũng khoảng 650 tuổi. Cứ đến mùa đông và
mùa xuân, cây ra hai loại hoa hồng và trắng cùng một lượt, kéo dài 5 tháng liền.