CỜ VÂY
圍棋
Cờ vây tiếng Anh gọi là Go Game là một môn
giải trí đã có rất lâu ở phương Ðông mặc dù chỉ mới phổ thông ở phương Tây chừng
một trăm năm nay, sau khi người Âu Châu có những tiếp cận với Á Châu qua thương
mại và chiếm lĩnh thuộc địa. Ngay từ lúc đầu cờ vây được đánh giá rất cao vì
chú trọng đến phương pháp lý luận (rationalization). Một kỳ thủ là ông Emanuel
Lasker đã nói:
- Cờ
vua chỉ hạn chế trong nhân loại sống trên quả đất trong khi cờ vây vượt khỏi thế
giới này. Nếu trên một hành tinh nào mà có những sinh vật biết lý luận thì ở đó
họ phải biết đánh cờ vây.[3]
Người viết cũng như đa số độc giả kiếm hiệp
không biết môn cờ vây như thế nào. Thiên khảo luận này cũng như nhiều bài khác
cũng chỉ là những góp nhặt từ sách vở để thỏa mãn sự tò mò và giúp cho chúng ta
có cái nhìn rõ rệt hơn về những chi tiết nơi tiểu thuyết.
LỊCH SỬ
Cờ vây tiếng Hán là “vi kỳ” (圍棋) vì chủ yếu của môn chơi này là làm sao bao vây và tiêu diệt bên địch.
Cũng như bất cứ bộ môn nào, người ta luôn luôn tìm cho ra một tổ sư. Cho nên cờ
vây cũng có một vị tổ mà theo Trương Hoa (張華) trong Bác Vật
Chí (博物志) thì:
Vua
Nghiêu chế ra cờ vây để dạy cho con là Ðan Châu.[4]
Thần tích này cũng được lập lại trong nhiều
sách vở cận đại nhưng không có gì chắc chắn. Theo Edward Falkener thì ghi nhận
sớm nhất về cờ vây vào khoảng 300 trước Tây Lịch, dựa trên khảo cứu của Giles,
lãnh sự Anh tại Trung Hoa cuối thế kỷ XIX. Giles cũng gọi cờ vây là cờ chiến
tranh (a game of war), một cuộc chiến “không dựa trên vũ khí trang bị cho
hai đạo quân mà dựa trên cách bài binh bố trận, phòng ngự và tấn công”. Hai
bên không tiêu diệt nhau từng quân một mà có thể tiêu diệt cả một đoàn và người
đánh cờ không chỉ tập trung vào một chỗ mà phải thấu triệt toàn bộ mặt trận, những
điểm mạnh hay điểm yếu của chính mình và đối phương.[5]
Vi kỳ ngày xưa gọi là “dịch” 弈 (viết với bộ củng). Trong những sách cổ của Trung Hoa như Tả Truyện,
Luận Ngữ, Mạnh Tử đã nhắc nhiều đến “dịch” nhưng từ đời Hán trở đi
thì cái tên vi kỳ càng ngày càng thông dụng. Hứa Thận trong Thuyết Văn Giải
Tự có chép:
Dịch tức
là cờ vây.
弈,圍棋也
Dịch, vi kỳ dã.
Dương Hùng (揚雄) trong Phương Ngôn
viết rõ hơn:
Vi kỳ tức là dịch. Ở vùng Quan Ðông, Tề, Lỗ người ta gọi
là dịch.
圍棋謂之弈。自關東齊魯之間皆謂之弈
Vi kỳ vị chi dịch. Tự Quan Ðông Tề Lỗ chi gian giai vị chi dịch.
Ban Cố (班固) trong Dịch Chỉ (弈旨) cũng xác định là người phương Bắc gọi là dịch trong khi phương nam thì gọi
là vi kỳ.
Theo như các nhà nghiên cứu, phương pháp và chiến lược đánh cờ vây trước
nay vẫn thế mặc dầu bàn cờ theo thời gian có thay đổi ít nhiều.
Bàn cờ bằng sứ đời Tuỳ
Ðào được trong mộ của Trương Thịnh tại Hà
Nam năm 1959
Thiệu Văn Lương: Trung Quốc cổ đại thể dục
Sports in Ancient China tr. 172
Hiện nay bàn cờ gồm ngang dọc mười chín đường, tổng cộng 19 x 19 = 361 nước. Tuy nhiên theo những cổ vật đào được thì bàn cờ nguyên thủy không hẳn như thế. Năm 1977, ở Nội Mông trong một ngôi mộ cổ đời Liêu có một bàn cờ ngang dọc chỉ có 13 vạch (13 x 13 = 169 nước). Năm 1971 bàn cờ đào được ở Hồ Nam, huyện Tương Âm trong một ngôi mộ đời Ðường, bàn cờ có 15 vạch (15 x 15 = 225 nước). Năm 1952, ở Vọng Ðô, Hà Bắc trong một ngôi mộ đời Ðông Hán có bàn cờ bằng đá có 17 đường (17 x 17 = 289 nước) tương tự như bàn cờ trong hình vẽ của nước Thổ Phồn. Bàn cờ bằng sứ đời Tuỳ đào được năm 1959 trong mộ của Trương Thịnh tại An Dương, Hà Nam có 19 đường.[6] Tuy những bàn đó khác nhau về kích thước nhưng tựu trung bao giờ cũng là số lẻ (13, 15, 17, 19).
Ngay từ nguyên thủy, phép đánh cờ chủ yếu
là vây và diệt đối phương, lấy đó làm tiêu chuẩn thắng bại. Một bên đặt quân xuống,
bên kia liền cố gắng làm cách nào cô lập và loại trừ, đối phương phải đưa ra một
kế sách chống lại, và người đặt quân đầu tiên kia không khác gì đưa ra một mục
tiêu để tấn công, mang ý nghĩa trung tâm của cuộc diện, được đặt tên là “kỳ
nhạc”[7] (棋鄂). Mã Dung (馬融) trong Vi Kỳ Phú (圍棋賦) có viết:
Ðánh cho một trận tan hoang,
Ðịch kia nguy ngập hoang mang hãi hùng.
Bao vây soái trướng trùng trùng,
Y quan giáp trụ quăng cùng thoát thân.
橫行陣亂
敵心駭惶
迫兼棋鄂
頗棄其裝
Hoành hành trận loạn
Ðịch tâm hãi hoàng
Bách kiêm kỳ nhạc
Phả khí kỳ trang[8]
Bên khách sẽ nhắm vào quân cờ đó đưa ra chiến
lược bao vây, tiêu diệt và bên chủ cũng dựa vào đó để kháng cự. Ðời xưa, quân cờ
đầu tiên phải đặt ngay chính giữa (giao điểm vạch số 10 trong bàn cờ 19 vạch),
và đó là lý do tại sao bàn cờ phải là 13, 15, 17 hay 19 đường ngang dọc.
Nghệ Kinh (藝經) của Hàm Ðan Thuần (邯鄲淳) đời Tào Ngụy có chép:
Bàn cờ
mười bảy đường ngang dọc, tổng cộng 289 đạo, hai bên đen trắng mỗi bên 150 quân.
Sách vở, ca khúc nhiều nơi còn truyền lại
cho thấy Nam Bắc triều trở về trước, bàn cờ chỉ có 17 đường. Hiện nay, Tây Tạng,
Tích Kim nhiều nơi bàn cờ vẫn chỉ có mười bảy đường mà thôi.
Bàn cờ 19 đường phát hiện sớm nhất vào khoảng đời
Tùy. Năm 1959, tại An Dương Hà Nam người ta đào được một bàn cờ bằng sứ có 19 vạch.
Thế nhưng theo Tôn Tử Toán Kinh (孫子算經) đời Ðông Hán đã
có viết là bàn cờ gồm 19 đường, thành thử rất có thể từ đời Hán người ta dùng cả
hai loại bàn cờ 17 và 19 đường.
Theo những chuyên gia về cờ vây, bàn cờ 17
đường hơi nhỏ khó thi triển những nước hay và sự tính toán của các kỳ thủ bị giảm
đi nhiều. Ngoài lý do thực tiễn, người ta cũng đưa ra nhiều lý luận, đem cả đạo
học và số học vào để nâng nghệ thuật chơi cờ lên một mức cao hơn. Trương Nghĩ (張擬) đời Tống viết trong Kỳ Kinh Thập Tam Thiên (棋經十三篇) như sau:
Bàn cờ có 361 điểm. Số 1 là chủ của
sinh số (tức số đầu tiên), theo trung tâm (kỳ nhạc) mà vận chuyển bốn phía. 360
là con số tượng cho chu thiên (ngày trong một năm), chia ra làm bốn số ngẫu tượng
trưng cho bốn mùa (tứ quí). Mỗi ngẫu gồm 90 lộ, mỗi lộ tượng trưng cho một
ngày, chung quanh vòng ngoài 72 lộ, tượng trưng cho hầu ( tức 1/3 của tiết
khí).
Lẽ dĩ nhiên đây chỉ là một cách “tán rộng”
chúng ta vẫn thường thấy trong nhiều sách vở, kể cả một số người Việt chúng ta
dựa theo sự tưởng tượng phong phú của mình để tìm một lối giải thích những hiện
tượng chung quanh cho thêm phần huyền bí.
Ðời xưa, môn cờ vây của Trung Hoa còn một vị
trí đặc biệt khác, trước khi hai bên giao đấu thì bàn cờ đã đặt sẵn bốn quân đối
xứng nhau, hai đen hai trắng ở bốn góc (cách góc mỗi chiều ba nước) gọi là “thế
tử ” 勢子 (quân trấn giữ). Theo suy đoán, nguyên thủy vi kỳ nhằm bao vây và
tiêu diệt lẫn nhau, lấy kỳ nhạc làm trung tâm rồi mở rộng ra, làm thế nào giết
được quân chính giữa đó là thắng. Ðể ngừa việc một bên tập trung quân lại một
chỗ theo kiểu “các cứ nhất phương”, người ta đặt bốn quân bốn góc và dần
dần biến thành qui luật để bắt đầu bàn cờ.
Những người đánh cờ cao thường chấp người
kém mình hai quân “thế tử” và lối đánh đó gọi là “không hoa giác”,
trong kỳ phổ còn ghi lại nhiều bàn cờ như vậy. Bào Ðỉnh (鮑鼎), một danh thủ đời Thanh mạt có viết:
Một cuộc cờ có thế tử để ngay từ đầu
hai bên đều có thể vừa công vừa thủ. Cờ không có thế tử, người ta có thể chiếm
cứ một vùng rồi cố thủ.
Một điểm khác chúng ta cũng nên nhắc đến là
chữ kỳ 碁 (cờ) có thể viết với bộ thạch 石 (đá) vì người xưa nhặt những hòn sỏi làm quân
cờ nhưng về sau quân cờ làm bằng gỗ, chính vì thế chuyển sang bộ mộc. Dương
Hùng trong Pháp Ngôn viết:
Chặt gỗ
làm cờ
斷木為棋
Ðoạn mộc vi kỳ
Sách Ngọc Lâu Tử chép rằng vua Nghiêu dạy
cho Ðan Châu đánh cờ vây rằng:
Lấy gỗ dâu làm bàn cờ, lấy sừng
tê, ngà voi làm quân cờ
以文桑為局犀象為子
Dĩ văn tang vi cục, tê tượng vi tử
Càng về sau khi người ta đưa đánh cờ lên một thú
tiêu khiển tao nhã, bàn cờ quân cờ càng trở nên tinh vi, vẽ vời nên không hiếm
những bộ cờ quí làm bằng sừng, bằng ngà còn lưu lại trong các tàng cổ viện. Tề
Kỷ đời Ðường viết trong Tạ Nhân Huệ Kỳ (cảm ơn người cho bộ cờ) là:
Mài vỏ
trai biển thành quân sáng lấp lánh
海蚌琢成星落落
Hải bạng trác thành tinh lạc lạc
Ðịa Lý Chí trong Tân Ðường Thư thì viết:
Ở quận Nhữ
Nam, Sái Châu có tiến cống quân cờ bằng ngọc Mân.
蔡州汝南郡, 土貢岷玉棋子
Sái Châu Nhữ Nam quận, thổ cống mân ngọc kỳ tử
Trên một bức thiếp của Bạch Khổng Lục (白孔陸) có ghi:
Tại các nhà phú quí ở Quan Thành
người ta dùng lõi gỗ tử đàn và thụy long não làm quân cờ.
Tống Sử cũng có chép Tống Thái Tông ban cho
Tiền Thục quân cờ bằng thủy tinh, còn Lý Ðông Dương đời Minh thì có bài thơ
nhan đề “Vân Nguyệt Dạ Quan Thủy Tinh Kỳ Hí Tác” 雲月夜觀水精棋戲作 (Ðêm trăng có mây ngồi xem đánh cờ bằng quân thủy tinh mà làm ra). Mới
đây người ta cũng đào được những quân cờ đời Nguyên làm bằng mã não. Trong Nam
Trung Tạp Ký chép về quân cờ làm tại Vân Nam:
Quân cờ đất Ðiền Nam thì vùng
Vĩnh Xương là hạng nhất ... sắc trắng như trứng gà, còn đen thì như lông quạ.
Ðời Minh, quân cờ từ Vân Nam dùng làm cống
phẩm được khen là “nặng như ngọc”. Minh Nhất Thống Chí (明一統志) có viết là: “Quân cờ Vĩnh Xương thiên hạ không đâu bằng”.
Quân cờ nơi đây dùng mã não và đá tử anh tán ra trộn keo rồi nặn thành, là một
đặc sản bí truyền của vùng này được gọi dưới cái tên “Vĩnh tử ” (quân cờ
đất Vĩnh Xương).[9]
Thế còn bàn cờ thì sao?
Trong lịch sử những bàn cờ được ghi lại rất nhiều.
Trong Nam Phương Thảo Mộc Trạng (南方草木狀) của Kê Hàm (嵇含) có viết:
Cây
quang lang [10] gỗ giống như tre, sắc đen thẫm, có vân, người ta thường xẻ
ra làm mặt bàn cờ, vốn từ quận Cửu Chân đất Giao Chỉ.
桄榔木性如竹,紫 黑色,有紋理。工人解之,以製弈枰,出九真,交趾
Quang lang mộc tính như trúc, tử hắc sắc, hữu
văn lý. Công nhân giải chi, dĩ chế dịch bình, xuất Cửu Chân, Giao Chỉ.
Như vậy người Tàu kể cũng cầu kỳ phải tìm đến
tận nước ta ở phương Nam để lấy gỗ làm bàn cờ. Tuy nhiên thông thường người ta
dùng gỗ thu[11] vì gỗ này cứng
nhưng nhẹ, sớ khít khao “khi quân cờ gõ xuống tiếng nghe như kim ngọc”,
nên về sau “thu bình” (楸枰) là một tên gọi khác của bàn cờ. Những bậc đế
vương còn cầu kỳ hơn, không hiếm sách vở nhắc đến những bàn cờ, quân cờ bằng ngọc,
bằng ngà, bằng sừng tê, sừng linh dương. Lại có cả bàn cờ dệt bằng gấm:
Gái đâu khéo thế thì thôi,
Bàn cờ dệt được đều ơi là đều.
錦城巧女費心機
織就一枰如許齊
(織錦棋盤詩) (樓鑰)
Cẩm thành xảo nữ phí tâm cơ
Chức tựu nhất
bình như hứa tề
Chức cẩm kỳ bàn thi
(Lâu Thược)
Nam Tống
Trong nhiều tác phẩm dã sử, ngoại sử đời Minh
Thanh người ta cũng nhắc đến những bộ cờ tìm thấy trong nhà hai quyền thần
Nghiêm Tung (嚴嵩) và Hòa Thân (和珅) khi hai người đã bị thất sủng. Những bộ cờ đó
được đúc bằng vàng bạc, bích ngọc, bạch ngọc, thủy tinh ...
Bàn cờ ngày nay thường làm bằng gỗ phỉ [12],
ngân hạnh[13] , quế mộc[14].
Người ta chọn gỗ làm sao để lúc đi quân không nghe tiếng sát phạt, đinh tai và
không có sức bật để chơi lâu không bị nhức xương. Bàn cờ cũng thường có chân và
nhiều loại rất đắt tiền.[15]
Qua thế ta đủ biết, người Trung Hoa trong
nhiều triều đại đã hao phí không biết bao nhiêu công lao hơi sức chỉ để vào những
trò giải trí. Chúng ta một mặt vẫn tấm tắc khen ngợi sự tinh xảo và dụng công của
họ, một đặc trưng của văn minh Hoa Hạ, mặt khác vẫn nhìn thấy cái khuyết điểm
to lớn khi cả một dân tộc chỉ chạy theo những kỹ xảo cỏn con để đến nỗi nhiều lần
bị ngoại xâm, mất nước và biết bao thảm họa cho dân tộc.
VI KỲ PHÁT TRIỂN RA SAO?
Ðời Hán:
Ngay từ đời Hán người ta đã nói nhiều đến
môn cờ vây. Hán Cao Tổ Lưu Bang đã từng cùng Thích phu nhân uống rượu cúc đánh
cờ. Ngoài ra trong sử sách cũng còn ghi đến hàng chục người khác được mệnh danh
là hảo thủ, mặc dù cổ nhân cũng khuyến cáo là đánh cờ dễ đưa người ta vào đam
mê, khinh suất trong lời ăn tiếng nói. Quá chút nữa, người ta lại còn coi việc
đánh cờ như một hình thức bói toán, được là hên (may), thua là xui (rủi). Tam
Phụ Hồng Ðồ (三輔黃圖) chép là trong cung nhà Hán khi đánh cờ đầu năm
“người thắng cả năm may mắn, người thua cả năm bệnh tật”. [16]
Ði sâu thêm nữa, cờ vây được giới nho sĩ xiển
thuật và “tán” rộng. Ban Cố để cả một thiên Dịch Chỉ (弈旨) để viết về phép đánh cờ:
Bàn cờ
vuông vức tượng trưng cho đất. Ðường vạch (đạo hay kỳ lộ) thẳng băng ý tôn sùng
cái đức sáng của thiên hạ. Quân cờ chia làm đen trắng, phân ra âm dương. Quân
bày ra tượng trưng cho tinh tú trên trời.[17]
Ông cũng phân biệt “bác” 博 (đánh bạc) với “dịch” 弈 (đánh cờ) cho rằng đánh cờ bao hàm nhiều ý
nghĩa, “trên tuân theo luật vận hành của trời đất, rồi tới phương pháp trị
nước của thánh nhân, sau đó phân chia quyền lực cho ngũ bá, thích hợp với đường
lối trong thời chiến tranh”.[18]
Sau rốt, ông cũng cho rằng việc đánh cờ phù hợp với
đường lối của thánh hiền, có tác dụng tu tâm dưỡng tính. Cũng thời này, nhiều
văn nhân khác lại cũng đi sâu thêm vào việc ca tụng cái thú nhàn nhã này. Tuyên
Ðàm (楦譚) trong Tân Luận (新論) coi việc đánh cờ như hành binh bố trận. Mã Dung
(馬融) trong Vi Kỳ Phú (圍棋賦):
Xem đánh cờ thấy phép tắc chẳng
khác gì dùng binh. Bàn cờ ba thước là chiến trường.[19]
Ðời Tam Quốc:
Kinh Tịch Chí (經籍志) đời Tùy, người ta xếp sách viết về vi kỳ vào binh pháp loại,
chia ra ba bậc. Bậc trên khống chế đại cuộc, không cần đánh mà khuất phục được
đối phương. Bậc giữa hai bên tranh thủ từng bước còn bậc dưới chỉ cố thủ một
góc cầu hòa.
Ðời Tam Quốc (三國), Tào Tháo (曹操) cũng là một kỳ thủ nổi tiếng. Ngoài ra còn phải kể đến Sơn Tử Ðạo (山子道), Quách Khải (郭凱), Vương Cửu Chân (王九真) rất nổi danh
ngang tài với Tào Tháo. Gần đây, khi người ta đào được ở mộ của Tào Ðằng 曹騰 (ông nội Tào Tháo) tại huyện Bạc, tỉnh An Huy một bộ cờ bằng đá thì
người ta cho rằng họ Tào là một thế gia về môn cờ vây. Dưới trướng họ Tào cũng
có nhiều danh sĩ để lại tác phẩm về cờ vây chẳng hạn Ứng Sướng (應暢) viết tác phẩm Dịch Thế (弈勢), Vương Xán (王粲) viết Vi Kỳ Phú Tự (圍棋賦序). Họ Vương là người nổi tiếng có trí nhớ tốt,
xem đánh cờ gặp ván hay có thể đi lại từ đầu chí cuối không sai một quân.
Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, khi viết về Khổng
Minh Gia Cát Lượng (諸葛亮), La Quán Trung cũng tô vẽ ông là một người giỏi
cờ vây khiến bốn chữ thần cơ diệu toán, vốn dĩ để chỉ việc tính toán nước đi đã
biến thành một câu nói chỉ mưu lược. Còn ở Ðông Ngô, hai kỳ thủ Nghiêm Võ (嚴武) và Mã Tuy Minh (馬綏明) được mệnh danh là kỳ thánh và những thế cờ của
họ được coi là một trong Ngô Trung Bát Tuyệt (吳中八絕). Kỳ Phổ cổ nhất
mà sách vở còn ghi chép cũng từ Ðông Ngô, gọi là Ngô Ðồ (吳圖) đến đời Ðường vẫn còn. Ðỗ Mục (杜牧) trong Trùng Tống
tuyệt cú (重送絕句) đã viết:
Gió tuyết qua đêm từ biệt bạn,
Một đèn mờ tỏ sắp cờ vây.
別後竹窗風雪夜
一燈明暗復吳圖
Biệt hậu
trúc song phong tuyết dạ,
Nhất đăng
minh ám phục Ngô Ðồ.
Trong Vong Ưu Thanh Lạc Tập (忘憂清樂集) đời Tống còn có chép một ván cờ của Tôn Sách (anh trai Tôn Quyền)
đánh với Lã Phạm có tên là Tôn Sách Chiếu Lã Phạm Dịch Kỳ Cục Diện (孫策詔呂範弈棋局面). Trong Nghệ Kinh Hàm Ðan Thuần (邯鄲 淳) chia kỳ nghệ thành chín loại:
Thứ nhất là nhập thần (入神), thứ nhì là tọa chiếu (坐照), thứ ba là cụ
thể (具體), thứ tư là thông u (通幽), thứ năm là dụng
trí (用智), thứ sáu là tiểu xảo (小巧), thứ bảy là đấu
lực (鬥力), thứ tám là nhược ngu (若愚), thứ chín là thủ
chuyết (守拙).
Chín thứ bậc này mô phỏng theo lối tuyển người
làm quan (cửu phẩm trung chính chế) nhưng không nêu rõ nội dung và tiêu chuẩn
nên không biết rõ thế nào chỉ đoán chừng theo tên gọi là người nào đánh cờ tiêu
sái, phóng khoáng là bậc cao còn chăm chăm ăn quân, giữ thành là bậc thấp.
Ðời Tấn:
Sang đời Tấn, Võ Ðế Tư Mã Viêm (司馬炎) thích đánh cờ khiến cho thời này trở thành một phong trào. Hai gia
đình nổi tiếng là họ Vương và họ Tạ rất mê đánh cờ mà đại biểu là Thượng Thư
Vương Ðạo (王導), một khai quốc công thần của nhà Tấn, thường đánh cờ với con là
Vương Duyệt (王悅). Em Vương Duyệt là Vương Ðiềm (王恬) cũng là một kỳ thủ
nổi danh. Còn họ Tạ thì có Tạ An (謝安) nổi danh trong trận
Phì Thủy, Tạ Huyền (謝玄) nổi tiếng là tao nhã, trấn tĩnh khi đánh cờ
cùng với những danh sĩ khác như Bùi Hà (裴遐), Nguyễn Tịch (阮籍), Vương Thản Chi (王坦之), Nguyễn Giản (阮簡), Viên Khương (袁羌) đều là những người yêu thích cờ vây.
Cũng vào thời kỳ này người ta còn truyền tụng nhiều
giai thoại về những kỳ thủ, thái độ vừa khoáng đạt, vừa bình thản, dẫu gặp lúc
nguy nan vẫn không biến sắc, nước đi không loạn. Vương Úc (王彧) làm quan dưới triều Tống Minh Ðế. Khi nhà vua[20]
bị bệnh nặng sắp chết muốn Vương Úc chết theo mình để khỏi hậu hoạn, nên sai
người đem thuốc độc đến ban cho ông. Vương Úc đang đánh cờ, nhận được chiếu chỉ
đọc xong, mặt không biến sắc, vẫn tiếp tục đánh nốt bàn cờ dở dang. Khi xong
ván cờ, ông nhặt những quân cờ xếp lại ngay ngắn trong hộp, sau đó mới nói cho
đối phương biết mình phụng mệnh tự tận rồi cầm chén thuốc độc lên, xin lỗi
khách nói rằng:
- Rượu này rất tiếc không thể
mời ai uống được.
Ông nói xong thản nhiên uống. Thái độ trấn tĩnh
đó về sau vẫn được coi như một phong thái tiêu biểu cho người quân tử, coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng và vì thế người ta xếp việc đánh cờ ngang hàng với cầm,
thư, họa.
Người ta cũng ca tụng việc đánh cờ ở hai tư thái
khác, ngồi ngay ngắn trước bàn cờ tượng trưng cho sự thẳng thắn, trong sáng (tọa
ổn) còn tay cầm quân cờ, đi từng nước cho hay tâm sự, bản tính mình ra sao cũng
không khác gì nói chuyện (thủ đàm).
Ðời Tấn cũng còn một danh sĩ khác là Tổ Nạp (祖納), anh của Tổ Ðịch (祖逖) người nổi tiếng vì mỗi sáng sớm khi gà vừa gáy
là dậy tập múa kiếm (văn kê khởi vũ - 聞雞起舞) coi việc đánh cờ
là để quên sầu (vong ưu) mà sau này vua Tống Huy Tông (宋徽宗) đã coi như một tâm niệm để viết thành câu thơ “vong ưu thanh lạc
tại bình kỳ”[21] (quên sầu, vui một cách
thanh nhã là ở nơi bàn cờ).
Cho tới nay người ta vẫn coi tọa ổn (坐隱), thủ đàm (手談) và vong ưu (忘憂) là ba đặc tính phải có của người thích vi kỳ.
Một trang trong Vong Ưu Thanh Lạc Tập
Sports in Ancient China tr. 177
Nam Triều:
Nam Triều bao gồm một thời gian dài (170 năm) bao
gồm nhiều triều đại Tống[22] Tề Lương Trần nên cũng có
nhiều người mê đánh cờ. Thời kỳ này đánh cờ cũng được phân chia thứ bậc, có
danh hiệu riêng như thời Tam Quốc, lại đặt thêm những tên gọi cho từng loại
trong cùng một bậc chẳng hạn như cao phẩm, danh phẩm, thượng phẩm, dật phẩm ...
Trong kỳ phổ còn ghi tên một số nhân vật thượng đẳng như Vương Ðiềm (王恬), Vương Úc (王彧) đời Ðông Tấn đã được nhắc tới ở trên.
Những quốc thủ đời Tống, Tề đến nay còn ghi lại
phải kể đến Vương Kháng (王抗), Hạ Xích Tùng (夏赤松) và Chử Tư Trang (褚思莊). Vương, Hạ, Chử ba người có ba phép đánh riêng, mỗi người có một sở
trường, Vương Kháng chuyên về thủ, còn Hạ Xích Tùng lại giỏi về tấn công. [23] Hai người này suy nghĩ
nhanh, đi cờ nhậm lẹ, riêng Chử Tư Trang lại đi rất chậm, mỗi lần cầm quân lên
suy nghĩ mãi mới đặt xuống, đánh cờ lắm khi kéo dài suốt đêm mới xong một bàn.
Người ta kể rằng một lần Vương Kháng đánh cờ với Chử Tư Trang từ trưa đến tối,
sang canh năm mới phân hơn thua. Vương Kháng ngồi chờ Chử đi quân, ngủ gật bên
cạnh bàn cờ, còn Chử vẫn ngồi suy nghĩ mãi.
Ðời Bắc Nguỵ, quốc thủ phương bắc là Phạm Ninh
Nhi (范寧兒) từng đi sứ nước Tề ở Giang Nam, Tề Võ Ðế sai Vương Kháng ra đối trận
nhưng Vương Kháng bị thua.
Ðời Ðường:
Ðời Ðường là giai đoạn mà văn hoá Trung Hoa lên đến
cao điểm, việc đánh cờ cũng được đề cao. Người ta vẫn cho rằng đánh cờ là phản ảnh
trình độ trí tuệ, là một môn nghệ thuật thanh nhã. Chính từ đời Ðường mà người
ta đặt cầm kỳ thi họa chung với nhau. Chúng ta ai cũng biết thơ Ðường là loại
thơ với niêm luật chặt chẽ, cũng thường được ngâm vịnh khi đánh cờ và môn cờ
vây đến giai đoạn này đã tiến lên thêm một mức.
Theo điều lệ của Hàn Lâm Viện (翰林院) ghi trong Chức Quan Chí, Cựu Ðường Thư (職官志-舊唐書) có ghi:
Trong cung Ðại Minh, cung Hưng
Khánh, cung Tây Nội, cung Hoa Thanh đều có khu vực dành cho đãi chiếu. Ðãi chiếu
gồm có từ học, kinh thuật, hợp luyện, tăng đạo, bốc chúc, thuật nghệ, thư dịch,
(mỗi ngày) các viện tập họp đến tối mới tan.
Ðãi chiếu (待詔) là chức vụ bên cạnh
hồng đế như một loại cố vấn về những vấn đề chuyên môn, trong đó có cả cố vấn về
đánh cờ (thư dịch). Kỳ đãi chiếu nổi tiếng nhất đời Ðường là Vương Tích Tân (王積薪), cố vấn của vua Huyền Tông, tức Ðường Minh Hoàng.
Theo truyền thuyết, sở dĩ Vương Tích Tân kỳ lý giỏi
như thế là vì có một con rồng xanh từ thượng giới bay xuống nhả từ trong miệng
ra chín quyển Kỳ Kinh (棋經) ban cho. Thực ra, họ Vương là người rất chuyên
tâm nghiên cứu cách thức đánh cờ. Mỗi khi đi đâu, ông đem theo một túi quân cờ
và một bàn cờ giấy bỏ trong ống tre, treo vào cổ ngựa, gặp bằng hữu liền mở ra
đánh, đến cả dân chúng nếu muốn ông cũng chiều. Thành ra đi đến đâu ông cũng được
người ta đãi đằng cơm rượu và lâu dần trở thành danh thủ số một của đời Ðường.
Ông cũng thường đấu với các danh thủ các nơi và chín ván cờ ông cùng Phùng Uông
(馮汪) đấu nơi phủ đệ của Trần Cửu Ngôn (陳九言) được ghi lại
thành kỳ phổ tên là Kim Cốc Cửu Cuộc (金谷九局), truyền đến đời Tống
thì không còn nữa. Kỳ thế này rất là phức tạp, nhìn vào hoa cả mắt.
Ở đời Ðường, người nổi tiếng chỉ kém Vương Tích
Tân là Cố Sư Ngôn (顧師言). Trong Ðỗ Dương tạp biên (杜陽雜編) của Tô Ngạc (蘇鶚) có chép câu chuyện Trấn Thần Ðầu (鎮神頭) về việc Vương tử nước Nhật đến Trung Nguyên được vua Tuyên Tông sai
Cố Sư Ngôn đấu cờ. Vương tử này là quán quân về cờ vây của Nhật Bản, Cố Sư Ngôn
đấu với y hết sức gay go, toát cả mồ hôi tay. Ðến nước thứ ba mươi ba, Cố Sư
Ngôn đi nước Trấn Thần Ðầu giải được thế cờ của vương tử nước Nhật khiến y phải
chịu thua. Việc Cố Sư Ngôn đấu cờ với khách còn được ghi lại trong sử sách
nhưng thế cờ Trấn Thần Ðầu Nhất Tử Giải Song Chinh mà người ta truyền lại
đến ngày nay e rằng chỉ là một thế cờ được sắp đặt vì không hợp với kỳ pháp.
Ngoài Vương Tích Tân và Cố Sư Ngôn, đời Ðường
cũng còn nhiều danh thủ khác nổi tiếng như Phác La (朴羅), Hoạt Năng (滑能), Vương Thúc Văn (王叔文) ...
Vua Ðường Thái Tông đánh cờ
Tranh đời Tống
Lâm Lê Na: Minh
Thanh Cung Đình Hội Họa Nghệ Thuật Giám Thưởng, 2013 tr. 76
Ðời Tống:
Ðời Tống có Lưu Trọng Phủ (劉仲甫) là kỳ thủ nổi tiếng được người tiến cử vào chức kỳ đãi chiếu. Trước
khi nhập kinh, ông đến Hàng Châu, khi đó là một nơi phồn hoa đô hội, cao thủ rất
đông, ngày ngày ra ngồi xem người ta đánh cờ suốt mười ngày rồi mới trương bảng
nơi khách điếm “Kỳ Khách đất Giang Nam là Lưu Trọng Phủ chấp các kỳ thủ
đi trước”, [24] rồi đem tiền ra đánh cược.
Bảng trương lên, cao thủ trong thành lập tức ùn
ùn kéo đến xin đánh. Ðến nước thứ năm mươi, quân bên Lưu Trọng Phủ trở nên kém
thế, đến nước thứ một trăm thì họ Lưu lại càng sa sút, người chung quanh ai nấy
cười ông không biết lượng sức mình, to mồm khoác lác.
Ðột nhiên Lưu Trọng Phủ tằng hắng một tiếng, vơ
quân cờ trên bàn bỏ cả vào hộp. Người đứng xem ai nấy đều cho rằng ông chịu
thua, la ó không cho ông tính nước chạy làng. Lưu Trọng Phủ khi ấy mới từ tốn
nói:
- Tôi đến Hàng Châu xem đánh
cờ đã mấy ngày, tài nghệ các vị danh thủ đến mức nào cũng đã thấy. Chẳng hạn
như ngày đó ông đó đánh ván cờ đó, đáng lý ra bên trắng thắng to, thế nhưng vì
đi nước này nước này thành ra hỏng. Còn hôm này ván cờ này, bên đen thế đang tốt,
đi nhầm một quân “kiếp” (劫) thành ra lại thua.
Ông vừa nói vừa bày quân liên tiếp đến mười mấy
bàn, người xem ai nấy đều kinh ngạc. Lưu Trọng Phủ nói tiếp:
- Cứ lấy bàn cờ vừa mới đây
mà nói, quí ông chắc hẳn nghĩ rằng tôi thua đến nơi, thế nhưng tôi chỉ đi một
quân nữa thì sẽ thắng mười mươi, xin các vị cao thủ nghĩ lại xem có đúng không?
Mọi người hết sức suy tính nhưng không ai tìm ra giải
đáp, đành phải xin Lưu Trọng Phủ chỉ vẽ. Lưu Trọng Phủ bày lại ván cờ y như trước,
sau đó đặt xuống một quân ở một chỗ không liên quan gì đến thế cờ rồi nói:
- Quân này sau hai mươi nước
nữa mới có tác dụng.
Quả nhiên thêm hơn hai mươi nước cờ, tình hình
đúng như lời Lưu Trọng Phủ. Ðến khi buổi cờ kết thúc, Lưu Trọng Phủ thắng cả mười
ba bàn khiến nhân sĩ đất Hàng Châu ai nấy đều ra sức hậu đãi, cố giữ ông lại
thêm mươi ngày nữa.
Sau đó Lưu Trọng Phủ lên Biện Lương làm đãi chiếu
trong Hàn Lâm Viện và là danh thủ vô địch trong suốt hai mươi năm liền. Câu
chuyện này cho ta thấy phong khí đánh cờ thời Tống khá thịnh, các nơi thị tứ đều
có những cuộc tranh tài và triều Tống đi theo đường lối của đời Ðường đặt chức
đãi chiếu trong cung.
Người ta cũng nhận định rằng sang đời Tống, các kỳ
thủ không còn chú trọng đến phong độ vong ưu, toạ ổn, thủ đàm nữa mà đi sâu vào
các thế cờ hóc hiểm người sau gọi là “kỳ công” (棋工). Ngoài thành thị, các đạo quan, chùa chiền cũng là nơi hay bày ra
các cuộc cờ (hội cờ). Không biết ngẫu nhiên hay cố ý, Kim Dung viết Thiên Long
Bát Bộ đã cho nhiều ván cờ hóc hiểm được bày ra nơi đạo quan và miêu tả về những
ván cờ gay go giữa các nhà sư và đạo sĩ.
Những thế cờ từ đời Tống còn truyền lại khá nhiều
và phương pháp suy luận cũng ngày một phát triển. Trong Dịch Kỳ Tự (弈棋序) của Tống Bạch (宋白) đời Bắc Tống có viết:
Ðánh cờ có mấy điều: phẩm, thế, hành, cục. Phẩm
là hơn kém, thế là mạnh yếu, hành là kỳ chính, cục là được thua.
Ðạo của phẩm, giản dị mà hiệu quả là bậc thượng,
phải đánh mới thắng là bậc trung, nguy cơ mới được là bậc hạ.
Ðạo của thế, rộng rãi thong dong là bậc thượng,
trận địa nghiêm nhặt là bậc trung, sít sao gay go là bậc hạ.
Ðạo của hành, an nhiên phản ứng là bậc thượng,
nhanh chóng ứng phó là bậc trung, nóng nảy đi quân là bậc hạ.
Ðạo của cục, thư thái mà thắng là bậc thượng, biến
hoá mà thắng là bậc trung, sát phạt mà thắng là bậc hạ.
Trần Nguyên Tịnh (陳元靚) trong sách Sự Lâm
Quảng Ký (事林廣記) có chép Thập Quyết (十訣) là kinh nghiệm về việc đánh cờ vây:
- Một là không ham thắng
- Hai là đánh phải thư thả
- Ba là công định nhưng không
quên củng cố bên mình
- Bốn là chịu mất quân để
tranh tiên
- Năm là thả cái nhỏ để được
cái lớn
- Sáu là thấy nguy thì bỏ
- Bảy là cẩn thận không hối hả
- Tám là ra quân cần tương ứng
- Chín là nếu địch mạnh thì
phải tự bảo vệ mình
- Mười là thế yếu thì cố thủ
hồ
Mười điều trên đây được người sau coi là yếu chỉ
để áp dụng trong việc đánh cờ vây nhưng dường như có thể áp dụng trong bất cứ
môn chơi nào và là những bài học nhân sinh đầy từng trải. Lưu Trọng Phủ cũng để
lại Kỳ Quyết trong đó ghi lại chiến lược, chiến thuật của phép đánh cờ gồm bốn
phương diện:
- Một là bố trí thì cần chặt
chẽ, thích đáng cốt sao quân nọ liền quân kia, ràng buộc hỗ trợ lẫn nhau (hô ứng)
nhưng cũng đừng gần quá để thành một thế cờ phức tạp, ấy chính là “xa mà
không thưa, thưa ắt dễ đứt; gần nhưng không co cụm, co cụm ắt sẽ yếu”.[25]
- Hai là tấn công, khi vừa ổn
định thế cờ là phải lập tức tìm cơ hội tấn công vào trận địa của đối phương để
bên mình không bị đối thủ uy hiếp. Nguyên tắc ấy gọi là “làm sao ứng viện tiếp
liền nhau, tấn công liên tiếp”, sao cho “bên địch không thể không co
rút, không thể không suy yếu”.[26]
- Ba là dụng chiến, nơi nào
không ảnh hưởng đến bên mình, không làm hại cho toàn cục thì hãy đi. Cho nên
khéo thủ thì bên mình có thực lực; còn như tạo được thế hoàn toàn thì mình nhàn
nhã và tác chiến là làm sao “dĩ thực kích hư, dĩ dật đãi lao”.[27]
- Bốn là thu xả, đó là chỗ mà
Lưu Trọng Phủ gọi là “đại kế của phép đánh cờ”. Phàm bên trong mà đầy đủ thì ắt
dự tính được chước lạ, bên ngoài mà đầy đủ thì hình thế được phong long, dẫu có
ít cũng có thể thu về để tự bảo. Ấy chính là chỗ mà hậu thế nói là “lao dật
du quan thiểu diệc đồ, tinh hoa dĩ kiệt đa kham khí” (勞逸攸關少亦圖,精華已竭多堪棄).
Ðời Tống cũng còn lưu hành một bộ sử về cờ vây của
Trung Hoa do Trương Nghĩ (張擬) soạn nhan đề “Kỳ Kinh Thập Tam Thiên” (棋經十三篇) và một bộ Kỳ Phổ do kỳ đãi chiếu Lý Dật Dân (李逸民) biên soạn lại “Vong Ưu Thanh Lạc Tập” (忘憂清樂集) mà thành.
Sách này không những sưu tập lại các cổ phổ và
các ván cờ nổi tiếng cùng thời, định lại cách thức mà còn bao gồm luôn cả Kỳ
Kinh Thập Tam Thiên của Trương Nghĩ, Kỳ Quyết của Lưu Trọng Phủ, Luận
Kỳ Quyết Yếu Tạp Thuyết của Trương Tịnh.
Ðời Nguyên
Minh:
Khi khảo sát về tình hình trong cung nhà Nguyên,
mặc dù việc đánh cờ vẫn còn phổ biến nhưng triều đình không còn chức kỳ đãi chiếu
nữa. Tuy nhiên thời này phong khí nho gia vẫn thịnh và nhiều người chuyển sang
các thú tiêu khiển để quên đi cái nhục mất nước. Ðến cuối đời Nguyên, loạn lạc
liên miên và phải mấy chục năm sau khi Minh triều thành lập thì triều đình mới
cho triệu các quốc thủ vào cung để giúp vui cho hoàng gia.
Môät cách tổng quát, hai triều Nguyên Minh cờ vây
là sinh hoạt dân gian và là môn giải trí của quần chúng. Chu Mạn Sĩ (周漫士) đời Minh trong Kim Lăng toả sự (金陵瑣事) có viết:
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương
xây Tiêu Dao Lâu ở Nam Kinh, khách toàn là bọn bình dân đến chơi cờ đánh bạc,
trông vào chẳng thấy chút gì tiêu dao, chỉ toàn bọn ốm đói.
Kỳ thủ trứ danh nhất đầu đời Minh là Tương Lễ (相禮) và Lâu Ðắc Ðạt (樓得達). Tương Lễ cũng tinh thông thi hoạ, nổi tiếng là
“thiên hạ kỳ sư”, Vương Phùng có bài thơ Tuý Tặng Tương Tử Tiên
(Tử Tiên là ngoại hiệu của Tương Lễ) trong đó ca tụng tài đánh cờ của họ Tương.
Tuy nhiên khi ở Nam Kinh, họ Tương lại bị một người ở Ninh Ba là Lâu Ðắc Ðạt
đánh bại, về đến Hoa Ðình lại bị một nhà sư khất thực (du tăng) hạ luôn mấy ván
khiến cho không còn dám khoe danh hiệu “thầy cờ” nữa.
Từ khi có Lâu Ðắc Ðạt, phong khí đánh cờ lại nổi
lên. Sang đời Chính Ðức (1506-1521) cao thủ đánh cờ có Phạm Hồng (范洪), sang đời Long Khánh (1567-1573), Vạn Lịch (1573-1620) thì dần dần
hình thành ba kỳ phái:
1. Phái Vĩnh Gia (永嘉), đứng đầu là Bào
Nhất Trung[28] (鮑一中), người được Tể Phụ Dương là bạn của Phạm Hồng ca ngợi, kết làm bạn
vong niên và Vương Thế Trinh nhắc đến trong Dịch Chỉ (弈旨) là đánh cờ biến hoá như Hàn Tín cầm quân, vừa linh hoạt, vừa mãnh liệt.
Ngô Thừa Ân (吳承恩), tác giả bộ truyện
nổi danh Tây Du Ký trong “Vi Kỳ Ca Tặng Bào Ảnh Viễn” có hai câu:
Cất tay đặt quân khôn khéo lạ,
Tiếng cười rộ lên như biển gào.
忽時下子巧成功,
一笑齊聲海嘲哄。
... Hốt thời
hạ tử xảo thành công,
Nhất tiếu tề
thanh hải trào hống.
Ngoài họ Bào, phái Vĩnh Gia còn những cao thủ như
Lý Xung, Chu Nguyên, Từ Hi Thánh ...
2. Phái thứ hai là phái Tân An (新安) mà đại biểu là Trình Nhữ Lượng (程汝亮), thành viên có
Uông Thử (汪曙), Phương Tử Khiêm (方子謙) ...
3. Phái thứ ba là phái ở ngay kinh sư có Nhan
Luân (顏倫), Lý Phủ (李釜).
Người đương thời bảo là dẫu Gia Cát tái sinh cũng
không phá được Trình Nhữ Lượng mà Tôn Ngô kẹp hai bên cũng khó thắng được Nhan
Luân. Lý Phủ thì có “áp noãn chi uy” của Võ An Quân cùng với Bào Nhất
Trung là hai người số một đời Minh.
Uông Thử so với Bào Nhất Trung hơi kém hơn một
chút nhưng đời sau cho rằng Phương Tử Khiêm còn hơn cả hai người. Tương truyền
họ Phương được một kỳ nhân dạy cho 48 cách thức biến hoá nên trở thành một cao
thủ nhưng chính Phương Tử Khiêm đã cải chính rằng ông từ nhỏ đã mê cờ và những
gì ông biết được là do chính mình nghiên cứu.
Các môn phái đời Minh cho thấy việc đánh cờ vào
thời này trở thành đa dạng trong đó kỳ thủ trứ danh là Lâm Phù Khanh (林符卿), Quá Bách Linh (過百齡), Chu Lại Dư (周懶予) nổi tiếng cho tới
tận Thanh sơ. Trong Ngu Sơ Tân Chí (虞初新志) có một thiên “Quá
Bách Linh truyện” chép rằng năm Quá Bách Linh 11 tuổi, đại học sĩ Diệp Hướng
Cao đi qua Vô Tích, muốn đánh cờ, người trong hạt đưa họ Quá ra. Diệp Hướng Cao
là danh thủ ở kinh sư, nào ngờ thua cậu bé con luôn mấy ván, nên đưa lên đấu với
Lâm Phù Khanh, họ Lâm mới đầu khinh thị nhưng sau cùng phải nhường chức “quốc
thủ” cho Quá Bách Linh.
Tiền Khiêm Ích (錢謙益) trong bài thơ ca
ngợi Quá Bách Linh “Kinh Khẩu Quan Kỳ Lục Tuyệt Cú” có hai câu:
Ra quân từ thuở mới lên tám,
Cờ quạt trong tay đến bạc đầu.
八歲童牙上弈壇
白頭旗纛許誰干?
Bát tuế đồng
nha thượng dịch đàn,
Bạch đầu kỳ
độc hứa thuỳ can?
Quá Bách Linh có trứ tác “Quan Tử Phổ” (官子譜), “Tam Tử Phổ” (三子譜), “Tứ Tử Phổ” (四子譜) và hiệu đính lại
“Tiên Cơ Võ Khố” (仙機武庫), cải tiến lại các chiến thuật trấn thần đầu,
kim tỉnh lan, đại thiết võng, tiểu thiết võng ... tạo nên một phong khí mới
trong nghệ thuật cờ vây.
Chu Lại Dư là người Gia Hưng, Chiết Giang biết
đánh cờ từ khi mới 5, 6 tuổi, năm lên mười đã nổi tiếng là có thể phân trí vừa
đọc truyện vừa đánh cờ, đến nửa bàn đã đoán được hết các cách đi của đối thủ.
Tuy họ Chu nổi tiếng sau Quá Bách Linh nhưng cả hai đều là những danh thủ có
nhiều óc sáng tạo. Trong mười ván cờ mà hai người đấu với nhau (Quá Chu Thập Cục
- 過周十局), Chu Lại Dư chiếm thượng phong trở thành khắc tinh của họ Quá nhưng ảnh
hưởng không qua được vì thời thế đã biến chuyển, triều Minh đổ, triều Thanh
lên. Ðặng Nguyên Huệ (鄧元鏸) trong Luận Dịch (論弈) đã viết:
Ðầu triều chiến cuộc nghênh ngang,
Hai ông Chu, Quá lăng xăng tranh bàn.
Thời nay phong khí đã tàn,
Còn đâu áo mỏng đai nhàn đến xem.
明末清初戰局開,
過周袞袞共登台。
一時風氣趨遵緊,
無復輕裘緩帶來。
Minh mạt
Thanh sơ chiến cuộc khai,
Quá Chu cổn
cổn cộng đăng đài.
Nhất thời
phong khí xu tuân khẩn,
Vô phục
khinh cừu hoãn đái lai.
Ðời Thanh:
Người ta bảo rằng cái thú đánh cờ vây ở đời Thanh
phong thịnh chẳng khác gì thơ ca đời Ðường. Mà không cứ gì cờ, nhiều bộ môn nghệ
thuật khác cũng phát triển đến cực thịnh đưa nhà Thanh lên triều đại cao điểm của
văn minh Trung Hoa.
Cuối đời Thanh, Ðặng Nguyên Huệ viết Quốc Triều
Dịch Gia Tính Danh Lục (國朝弈 家姓名綠) trong đó sưu tầm được 169 người. Người được
xưng là Kỳ Thánh đầu đời Thanh là Hoàng Long Sĩ (黃龍士). Long Sĩ tên thực
là Cầu (虬),còn tên là Hà (霞) người đất Thái Châu, tỉnh Giang Tô sinh năm
1651 (Thuận Trị thứ 8), mới 18 tuổi đánh cờ với các quốc thủ đã dám chấp quân
hay nhường đối thủ đi trước. Nước cờ của ông người sau khen là “như tiên
trên trời xuống trần, không vương một chút bụi”, [29]
xuất thần nhập hoá. Kinh học gia Diêm Nhược Cừ (閻若璩) đã xếp Hoàng Long
Sĩ, Hoàng Tông Hi (黃宗羲), Cố Viêm Võ (顧炎武) vào trong danh
sách mười bốn thánh nhân thời Thanh sơ đủ biết tiếng tăm ông vang dội là chừng
nào.
Ngô Thanh Nguyên, một nhân vật chuyên nghiên cứu
về cờ vây đã cho rằng nước cờ của Hoàng Long Sĩ có thể sánh ngang với danh nhân
Nhật Bản Tú Sách (秀策) là người mà trước nay không ai bì kịp. Theo
chính lời của Hoàng Long Sĩ thì:
... Mười chín đường dọc ngang của
bàn cờ không khác gì 28 phân dã của tinh tú nên đánh cờ cũng không khác gì hoạch
thổ phân cương, lấy chỗ hiểm làm kinh đô, chẹn chỗ yếu để dựng trại, bao vây
trung thổ để phòng thủ chung quanh, khi chiến thì một tướng đơn thân xông lên,
dẫu chỗ kiên cố đến đâu cũng san bằng, khi thủ thì như một kẻ thất phu giữ cửa,
dẫu có thất hùng cũng không qua được, ấy là đại thế của công thủ.
Ðất hai bên bằng nhau, ai có thế
thì mạnh, lực hai bên ngang ngửa, người dụng trí thì thắng, cầm roi thì ái mộ
nước đi trước của Tổ Sinh, nhập quan thì thẹn việc đi sau Bái Công, ấy là việc
xây dựng cơ nghiệp phải sớm sủa. Còn như hư thực khác nhau thế nào, kỳ chính
tinh diệu ra sao, Tào Công vì có đất Kinh mà vùng vẫy trung nguyên, Á Phu vì đất
Lương mà bỏ Ngô Sở, Hạng Vũ lấy chính binh phá Triệu nên phải đánh Tần trước,
Tôn Tẫn dùng kỳ binh cứu nước Hàn mà thẳng đường sang Nguỵ, ấy là việc bỏ hay lấy
phải tuỳ nghi, minh bạch chuyện nhanh hay chậm của ta của địch ... (Kỳ Quát)
Năm Hoàng Long Sĩ hơn ba mươi tuổi có Từ Tinh Hữu
(徐星友) ở kinh sư đến học, kỳ lực đạt đến mức chỉ còn kém thầy hai quân. Thế
nhưng Hoàng Long Sĩ lại chấp Từ đến ba quân, hai người đánh mười ván, hai bên đều
kiệt lực suy nghĩ, vận hết tâm huyết đến nỗi hộc cả máu ra, thành thử hậu nhân
đặt tên cho mười bàn cờ đó là “huyết lệ thiên” (血淚篇). Sau trận cờ này
Từ Tinh Hữu trở thành quốc thủ nổi danh.
Từ Tinh Hữu người Hàng Châu, tuổi còn cao hơn Hoàng
Long Sĩ, đánh theo lối chính phái với tâm niệm “hư không hơn được thực, khéo
không hơn được vụng” làm nguyên tắc. Sau khi đánh xong mười bàn cờ huyết lệ
thiên, ông tiềm tâm suy nghĩ, ba năm không xuống dưới lầu. Sau khi Hoàng Long
Sĩ qua đời, Từ đứng đầu kỳ đàn trong liên tiếp ba bốn chục năm, thắng cả sứ thần
nước Cao Ly là người tự cho rằng không ai đối thủ.
Năm Khang Hy thứ 58 (1719), ông tuyển soạn Kiêm
Sơn Ðường Dịch Phổ (兼山堂弈 譜). Hai năm sau, ông ngẫu nhiên gặp hai cậu bé mới
12, 13 có thiên tư đánh cờ bèn chấp 3 quân, lại tặng luôn cho cuốn sách ông mới
soạn. Hai đứa trẻ được cuốn Kiêm Sơn Ðường Dịch Phổ bèn cùng nhau nghiên cứu một
năm, kỳ nghệ đại tiến, sau này chính là hai người nổi danh đời Thanh, Thi Tương
Hạ (施襄夏) và Phạm Tây Bình (范西 屏).
Thi Tương Hạ (1710-1770) có tên là Thiệu Ám (紹闇), hiệu là Ðịnh Am (定庵); Phạm Tây Bình (1709-1776) tên là Thế Huân (世勛) đều là người Chiết Giang, thành quốc thủ từ khi còn nhỏ. Hiện nay
sách vở còn truyền lại 10 ván cờ của hai người. Người đời nhận định rằng:
Tây Bình kỳ diệu cao viễn, biến
hoá như con rồng thần không ai có thể đoán được đầu đuôi; Ðịnh Am khít khao
nghiêm chỉnh như ngựa Ký xoải bước, nhanh mà không nhỡ bước.
Trong Dịch Tiềm Trai Tập Phổ (弈潛齋集譜), Ðặng Nguyên Huệ có viết:
Phạm Tây Bình nhờ biến hoá thần
tình mà nổi danh, Thi Ðịnh Am được khen là tiêu chuẩn không ai sánh nổi.
Từ Kha (徐珂) trong Thanh Bại
Loại Sao (清稗類鈔) thì cho rằng hai người trong kỳ đàn cũng không
khác gì Lý Bạch và Ðỗ Phủ trong làng thơ, mỗi người có một nét độc đáo riêng.
Sau khi ông mất, văn học gia Viên Mai (袁枚) đã viết mộ chí
cho Phạm Tây Bình, hết sức tán dương.
Thi Tương Hạ để lại Dịch Lý Chỉ Qui (弈理指歸) và Dịch Lý Chỉ Qui Tục Biên (弈理 指歸續編) còn Phạm Tây Bình thì biên soạn Ðào Hoa Tuyền Kỳ Phổ (桃花泉棋譜) tổng hợp những gì hai người đã thu đạt được trong mấy chục năm đánh
cờ và cho đến nay vẫn là những kim chỉ nam cho người ưa thích môn cờ vây.
Ngoài Thi, Phạm hai người, trong số quốc thủ đời
Thanh cũng còn Lương Nguỵ Kim (梁魏今) và Trình Lan Như (程蘭如) được hợp xưng là Tứ Ðại Gia.
Cuối đời Thanh, người ta cũng thấy có một số quốc
thủ khác như Trần Tử Tiên (陳子仙), Chu Tiểu Tùng (周小松). Trần Tử Tiên mất
sớm nhưng Chu Tiểu Tùng sống thọ qua nhiều triều đại từ Ðạo Quang đến Quang Tự,
tuy không lừng lẫy như Thi Phạm hai người. Ông để lại tác phẩm San Cúc Trai
Kỳ Bình (餐菊齋棋評).
TRIẾT LÝ VÀ GIAI THOẠI VỀ CỜ VÂY
Âu Dương Tu đời Tống có viết trong Tân Ngũ Ðại Sử:
Việc trị nước cũng không khác gì
đánh cờ vây, biết cách dùng, biết cách đặt cho đúng chỗ thì thắng, không biết
cách dùng, không biết cách đặt thì thua.[30]
Ông cũng đi xa hơn để nhận định rằng trong nghệ
thuật đánh cờ lắm khi chỉ thay đổi một quân cũng có thể chuyển bại thành thắng,
cũng không khác gì sử dụng con người, nếu biết cách thì nguy sẽ thành an, thua
sẽ thành được. Vấn đề dụng nhân như dụng mộc ngay từ xưa đã được đề cao mặc dầu
không có những tiêu chuẩn chặt chẽ, nặng phần trực giác nhưng đã ảnh hưởng rất
nhiều trong chính trị.
Lục Cửu Uyên (陸九淵), một lý học gia treo
một bàn cờ trên tường, trầm tư suy nghĩ trong hai ngày liền rồi buột miệng:
Cờ vây so với hà đồ cũng chẳng
có gì khác nhau!
Họ Lục là người chủ trương “vũ trụ là tâm mà
tâm cũng là vũ trụ”[31] là sáng tổ của phái tâm học
trong triết học Trung Hoa. Mã Ngọc (馬鈺), một trong Toàn
Chân Thất Tử đời Kim cũng thường hay đánh cờ với đệ tử để truyền dạy đạo pháp.
Ông từng nói:
Thần tiên đi đến chỗ chí đạo là
bão nhất, nếu như khi đánh cờ mỗi quân đều tỏ lộ được nét độc nhất vô nhị, chẳng
phải là “chí đạo hợp nhất” hay sao?
Các bậc cao tăng cũng hay lấy ví dụ từ đánh cờ mà
thuyết pháp. Pháp Viễn thiền sư truyền đạo cho Âu Dương Tu lấy cờ vây làm ẩn dụ.
Trung Phong thiền sư cho rằng tục đế là quân đen, chân đế là quân trắng ... nếu
ai nhìn thấu được cái lẽ đó thì bàn cờ biến hoá cũng không khác gì thế gian.
Lý Bí (李泌) đời Ðường, bảy tuổi
làm thơ vịnh đánh cờ có câu:
Vuông như làm điều nghĩa, tròn
như dùng mưu trí, động thì như thi thố tài năng, tĩnh thì như đã hoàn thành ý
nguyện.[32]
Lục Thụ Thanh (陸樹聲) đời Minh coi đánh
cờ là tuyệt nghệ của nhân sinh còn Vưu Ðồng (尤侗) đời Thanh thì bảo
rằng “quan sát mười chín đường kia còn hơn cả đọc hai mươi mốt bộ sử”.[33] Người ta lý giải rằng đánh
cờ hàm nghĩa hai phương diện:
- Kỳ lý hay qui luật đánh cờ
- Nhận thức hay sự tương đồng
với xã hội
Chính vì đánh cờ có nhiều điểm tương đồng với cuộc
đời, người ta cho rằng từ đó chúng ta có thể rút ra những bài học nhân sinh, áp
dụng vào sinh hoạt thường nhật. Ðiều đó đúng tới mức độ nào thì tuỳ theo sự
đánh giá của mỗi người.
Trong lịch sử Trung Hoa, nhiều tác phẩm viết về cờ,
kỳ lý cũng như kỳ cuộc, kỳ phổ còn lưu truyền đến ngày nay. Ðời Tống có Vong
Ưu Thanh Lạc Tập (忘憂清樂集), đời Nguyên có Huyền Huyền Kỳ Kinh
(玄玄棋經), đời Minh có Thích Tình Lục (適情錄), Thu Tiên Di
Phổ (秋仙遺譜), Dịch Tẩu (弈藪), Tiên Cơ Võ Khố (仙機武庫), đời Thanh có Quan Tử Phoå (官子譜), Dịch Quát
(弈括), Kiêm Sơn Ðường Dịch Phổ (兼山堂弈譜) , Dịch Lý Chỉ
Qui (弈理指歸) ... Những tác giả ngoài tài đánh cờ bao giờ cũng tìm ra được những
cách thức mới vượt ra khỏi bình thường.
Lâm Ứng Long (林應龍) trong Thích
Tình Lục đã sưu tầm được bảy trăm bàn cờ, sau đó phân tích bằng thuật ngữ
quân sự để chia ra hai mươi loại, rồi dùng hào quẻ trong Dịch Kinh để liên hệ với
nhau.
Quốc thủ đời Thanh là Thi Tương Hạ trong Dịch
Lý Chỉ Qui thì đem kinh nghiệm đã đưa ra được những qui tắc để giải những
nước khó khăn như “nhập phúc tranh chính diện” (入腹爭正面), “hình phương tất thứ, đầu nhuyễn tu bản” (形方必覷,頭軟須扳) ...
Phan Thận Tu (潘慎修) đời Tống thì lại
đem ngũ thường để luận cờ – “nhân tắc năng toàn, nghĩa tắc năng thủ, lễ tắc
năng biến, trí tắc năng kiêm, tín tắc năng khắc. Quân tử tri kỳ ngũ giả, thứ kỷ
khả dĩ ngôn kỳ hĩ.” (có thể toàn được ấy là điều nhân, có thể thủ được, ấy
là điều nghĩa, có thể biến được, ấy là điều lễ, có thể kiêm được, ấy là điều
trí, có thể khắc được, ấy là điều tín. Người quân tử biết cả năm điều, là có thể
bàn về đánh cờ được).
Ðời Tống, Trương Nghĩ (張擬) biên soạn Kỳ Kinh Thập Tam Thiên dựa theo Thập Tam Thiên binh
pháp của Tôn Tử, tổng kết mọi phương pháp lý luận của các đời, trong đó Luận Cục
là thiên đầu tiên có thể dùng làm cơ sở để luận cho mười hai thiên kế tiếp.
Sách vở cũng đề cao kỳ đức là phẩm hạnh của người đánh cờ và không hiếm người
dù phải tiếp bậc đế vương cũng không vì uy vũ mà mất tư cách.
Lạn Kha tiên khách (爛柯仙客)
Thuật Dị Ký (述異記) của Nhâm Phưởng (任昉) thời Nam Triều có chép:
Vào đời Tấn, ở núi Tín An, quận
Thạch Thất có một tiều phu tên là Vương Chất (王質) đi vào rừng đẵn củi, thấy hai đứa bé ngồi đánh cờ, cho
Chất một vật gì đó trông giống như hạt táo, ăn vào không thấy đói để cho y ngồi
chống búa mà xem. Ván cờ chưa xong, một đứa bé chỉ tay mà nói rằng:
- Cán búa của ngươi mục rồi kìa!
Khi Chất trở về đến quê cũ thì
đã một trăm tuổi, không cách nào có thể quay trở lại như ngày xưa.
Hiện nay một bàn cờ còn ghi lại trong Vong Ưu
Thanh Lạc Tập đời Nam Tống do Lý Dật Dân biên soạn, truyền là ván cờ mà Vương
Chất thấy hai vị tiên trên núi đã đánh. Câu chuyện này cũng được chép trong Phố
Ðảo Truyện Ký (浦島傳記) của Nhật tuy có khác hơn đôi chút.[34]
Ở nước ta tại Bắc Ninh cũng có ngọn núi tên là Lạn
Kha. Hiệp Biện đại học sĩ Cao Xuân Dục đời Thành Thái đã chép trong Viêm
Giao Trưng Cổ Ký như sau:
Núi Lạn Kha
Núi ở phía nam của huyện [Tiên Du], trên
núi có thú đá, ao long trì và nhà đá, trên đỉnh có bàn cờ. Tương truyền người
tiều phu tên là Vương Chất lên núi gặp hai ông già ngồi đánh cờ ở dưới gốc cây
thông, bèn chống rìu ngồi xem, mải mê đến lúc cán rìu mục nát ra. Nhân đó mới
có tên Lạn Kha (mục cán rìu). Chân núi có chùa Vạn Phúc, phong cảnh u nhã,
tương truyền chùa được dựng từ đời nhà Lí. Cũng theo người xưa kể lại thì đây
cũng chính là nơi Triệu Ðà bị An Dương vương đánh cho thua trận. Ðời Trần lập
ra thư viện Lạn Kha, cứ đến ngày trùng dương hàng năm vua lại ngự giá đến thăm
viếng. Cách vài dặm về phía tây có chùa Vĩnh Phúc, am Nguyệt Thường. Góc mé bắc
núi có chùa Kim Ngưu, là nơi Cao Biền nhìn thấy trâu vàng chạy ra. Ðá núi ở đây
có sắc như vàng, ban đêm phát ra ánh sáng nên có tên là núi Kim Ngưu.[35]
Lạn Kha đồ lục phổ
Bác Dịch Du Hý Nhân Sinh tr. 140-1
Bàn cờ này tất cả 290 nước, bên đen thắng một quân. Cao Thanh Khâu đã viết hai câu thơ hỏi kháy:
Một bàn sao lại nên nghìn tuổi?
Chắc tại tiên ông chậm đặt quân.[36]
Sau đây là bài thơ “Ðề
Vương Chất lạn kha đồ” (題王質爛柯圖) của Từ Vị (徐渭):
閑看數着爛樵柯,
澗草山花一剎那。
五百年來棋一局,
仙家歲月也無多。
Nhàn khan sổ
trước lạn tiều kha,
Giản thảo
sơn hoa nhất sát na.
Ngũ bách
niên lai kỳ nhất cục,
Tiên gia tuế
nguyệt dã vô đa.
Tạm dịch:
Vài nước trôi qua cán mục rồi,
Cỏ khe hoa núi sát na thôi.
Năm trăm năm đó chưa đầy ván,
Ngày tháng nơi tiên khác hẳn đời.
CỜ VÂY VỚI KIM DUNG
Những ai thích đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim
Dung đều ít nhiều nhớ đến những bàn cờ vây được Tra tiên sinh đưa vào truyện để
thêm khởi sắc, khởi đầu cho nhiều biến cố quan trọng trong võ lâm. Bàn cờ giữa
Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Ðạo với Giác Viễn trên núi Thiếu Lâm là biến cố quan
trọng nhất trong Ỷ Thiên Ðồ Long Ký trước khi thiên hạ chia ra thành bốn đại
môn phái Thiếu Lâm, Võ Ðương, Nga Mi, Côn Lôn. Sau đây là sự xuất hiện của Hà
Túc Ðạo trong rừng sâu:
Người đó
tiện tay đưa lên dây đàn gảy thêm vài đoạn ngắn, ngẩng đầu lên nhìn trời thở dài,
ngâm:
Vỗ kiếm
dương mi lòng trĩu nặng,
Nước
trong đá trắng nỡ lìa nhau.? [37]
Thế gian
này nếu không có kẻ tri âm, dù sống đến nghìn tuổi, phỏng có ích gì?
Nói đến đây, đột nhiên người đó
rút ra từ đáy chiếc đàn một thanh trường kiếm, ánh xanh lấp lánh, chiếu ra
trong rừng. Quách Tương nghĩ thầm: “Nguyên lai người này văn võ toàn tài, không
biết kiếm pháp của y ra sao”.
Chỉ thấy
y chậm rãi đi tới bãi đất trống trước một cây cổ tùng, mũi kiếm chỉ xuống đất,
gạch tới gạch lui, hết vạch này tới vạch khác. Quách Tương lấy làm lạ: “Trên thế
gian có loại kiếm pháp kỳ quái đến thế sao? Chẳng lẽ chỉ trỏ kiếm xuống đất vạch
một hồi, có thể khắc địch chế thắng? Người này quả thật quái dị không thể nào
đo lường được.”
Y vạch một
hồi, thấy gạch ngang mười chín nét, rồi đổi qua gạch dọc, tất cả cũng mười chín
nét. Kiếm chiêu trước sau không thay đổi, dù dọc hay ngang cũng chỉ thẳng băng
như chữ nhất. Quách Tương theo dõi kiếm thế của y, cũng đưa tay vạch lên đất mười
chín nét, bỗng dưng bật cười, y đâu có sử dụng kiếm pháp quái dị nào đâu, mà chỉ
dùng kiếm vạch thành một bàn cờ dọc ngang mỗi chiều mười chín nét.
Người đó vẽ bàn cờ xong, dùng
mũi kiếm vẽ tại góc trái bên trên và góc phải bên dưới mỗi nơi một vòng tròn, lại
tại góc phải bên trên và góc trái bên dưới mỗi nơi vẽ một vạch chéo. Quách
Tương đã thấy y vẽ đây là một bàn cờ vây, biết y đang bố trí trận thế tại bốn
góc, hình tròn là bên trắng, hình chéo là bên đen. Lại thấy y đặt một vòng tròn
cách ba ô trên góc trái, lại cách dưới hai ô vạch một hình chéo. Ði đến nước thứ
mười chín, y chống kiếm đứng, cúi đầu suy nghĩ, đang phân vân không biết nên bỏ
quân giữ thế hay cố sức tranh góc cạnh.
Quách
Tương nghĩ thầm: “Người này cũng chẳng khác gì ta, thật là tịch mịch, ở trong
núi hoang gảy đàn, lấy chim chóc làm tri âm; đánh cờ lại cũng không có đối thủ,
chỉ tự mình đánh với mình.”
Người đó
suy nghĩ một hồi, quân trắng không cách gì lơi ra được, trên góc trái đấu với
quân đen thật kịch liệt, nhất thời chưa tìm ra cách nào hay, từ bắc xuống nam
không thể nào tranh được phúc địa ở Trung Nguyên. Quách Tương xem cờ xuất thần,
từ từ nhích lại gần, nhưng vì quân trắng lúc bố cục bị thua một nước, trước sau
vẫn bị rơi vào hạ phong, đến nước thứ hai mươi ba thì gặp phải liên hoàn kiếp,
bên quân trắng lâm vào thế nguy, nhưng y vẫn cố gắng chống đỡ. Người đời thường
nói “Cờ ngoài bài trong”, ý nói người đứng ngoài coi đánh cờ bao giờ cũng sáng
nước hơn. Quách Tương đánh cờ cũng chỉ bình bình, nhưng nhìn thấy thế cục nếu bên
trắng còn đánh giằng dai không khỏi toàn quân bị mất, nên buột miệng nói:
- Sao không bỏ Trung Nguyên đi để lấy Tây Vực?
Người nọ
giật mình, thấy trên bàn cờ phía tây còn một chỗ trống lớn, nên lợi dụng bên
kia đang chặn bắt, để luôn hai quân, chiếm lấy chỗ yếu, tuy bỏ nửa chừng nhưng
biến được thành thế không thắng không bại. Người đó được Quách Tương một lời nhắc
nhở, ngửng mặt lên trời cười một hồi dài, luôn mồm: “Hay lắm, hay lắm”. Nói rồi
hạ luôn mấy quân. Y chợt nghĩ ra có người đang ở bên cạnh, nên ném trường kiếm
xuống đất, quay lại nói:
- Vị cao nhân nào đó đã chỉ dạy, tại hạ thật là cảm kích.
Nói rồi hướng về phía Quách
Tương đang ẩn náu vái chào một cái.
Kim Dung: Ỷ
Thiên Ðồ Long Ký, chương 1 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)
Nếu chúng ta để ý kỹ, bàn cờ đầu tiên của Hà Túc Ðạo đã phần nào hình
dung được cuộc thế võ lâm và lời nhắc của Quách Tương “bỏ Trung Nguyên đi để
lấy Tây Vực” có thể đem đến cho Hà Túc Ðạo ý niệm hùng cứ nhất phương trên
núi Côn Lôn thay vì toan tính ganh đua ở lục địa.
Qua chương 2, Kim Dung miêu tả bàn cờ Hà Túc Ðạo đấu trên chùa Thiếu
Lâm là một cuộc tỉ đấu nội lực không tiền khoáng hậu:
Hà
Túc Ðạo không trả lời, cúi xuống nhặt một viên đá sắc cạnh, đột nhiên vạch
ngang, vạch dọc trên nền đá tại trước sân chùa. Chỉ trong khoảnh khắc, y đã vạch
ngang dọc mỗi chiều mười chín đường thành một bàn cờ lớn. Ðường kinh đường vĩ đều
thẳng tắp, tưởng như dùng thước mà đo, mỗi nét đều sâu ngập vào đá khoảng nửa tấc.
Phiến đá đó vốn đẽo bằng đá xanh của núi Thiếu Thất, cứng như thép, mấy trăm
năm qua biết bao người lai vãng cũng không mòn đi chút nào. Y thuận tay dùng một
cục đá vẽ lên mà vào sâu cả tấc, nội công như thế trên đời ít thấy. Chỉ thấy y
cười nói:
- Tỉ kiếm e rằng bá đạo, đánh đàn thì không
có cách gì mà so tài. Nếu đại hòa thượng cảm thấy cao hứng, chúng ta đánh với
nhau một ván cờ xem sao?
Việc
y dùng đá vạch thành bàn cờ quả là một tuyệt kỹ kinh người, Thiên Minh, Vô Sắc,
Vô Tướng và cả đến Tâm Thiền Ðường thất lão ai cũng mặt mày ngơ ngẩn, thầm sợ
trong lòng. Thiên Minh phương trượng biết rằng nội lực hồn hậu như thế trong
chùa không ai bì kịp, tâm địa ông quang minh lỗi lạc, đang định mở miệng chịu
thua, bỗng nghe tiếng xích sắt loảng xoảng kéo lê trên đất vọng tới.
Chỉ thấy Giác Viễn gánh đôi thùng sắt lớn đi tới trước
mặt, theo sau là một thiếu niên cao lớn. Giác Viễn tay trái vịn lấy mép
thùng nước, tay phải đơn chưởng chỉ lên trời hướng về Thiên Minh hành lễ, nói:
- Theo lệnh lão phương trượng cho gọi đến.
Thiên
Minh nói:
- Vị Hà cư sĩ này có lời muốn nói với ngươi.
Giác
Viễn quay người nhìn lại, thấy Hà Túc Ðạo nhưng không nhận ra là ai, nói:
- Tiểu tăng là Giác Viễn, cư sĩ có điều gì muốn
sai bảo?
Hà
Túc Ðạo vạch xong bàn cờ, kỳ hứng nổi lên, nói:
- Chuyện đó để nói sau cũng không muộn. Bây
giờ đại hòa thượng nào cùng ta đánh cờ trước?
Thực
ra y không cố ý hiển thị công phu, có điều trong đời đối với ba món cầm kỳ kiếm
ham quá hóa mê, mỗi khi hứng tới thì dù có trời sập cũng không coi vào đâu, nên
khi muốn đánh cờ chỉ mong có người đối cuộc, còn việc tỉ thí võ công gác sang một
bên.
Thiên
Minh thiền sư nói:
- Hà cư sĩ vạch đá thành bàn cờ,
thần công như thế, lão nạp từ khi sinh ra chưa thấy bao giờ, tăng chúng trong tệ
tự cam chịu hạ phong.
Giác
Viễn nghe Thiên Minh nói như vậy, nhìn xuống thấy bàn cờ lớn trên nền đá xanh,
biết rằng người này đến đây cốt để phô bày võ công, lập tức xốc lại đôi thùng sắt,
hít một hơi, đem hết công lực một đời tu luyện dồn xuống hai đùi, theo những đường
vạch của bàn cờ từng bước đi tới.
Chỉ
thấy dây xích trên chân ông ta đi đến đâu thì trên phiến đá hiện ra một vết lõm
rộng chừng năm tấc, những đường vạch của Hà Túc Ðạo bị xóa sạch. Chúng tăng thấy
thế không nhịn được đều lớn tiếng hoan hô. Thiên Minh, Vô Sắc, Vô Tướng vừa lạ
lùng vừa mừng rỡ, không ngờ vị lão tăng si si ngốc ngốc này lại có nội công
thâm hậu đến thế, tuy cùng sống dưới một mái chùa mấy chục năm, mà mình không hề
hay biết gì. Bọn Thiên Minh biết rằng nếu chỉ trông vào nội lực của con người
thì dù mạnh cách mấy cũng không thể nào đạp lên đá xanh mà in dấu được. Cũng nhờ
Giác Viễn gánh thêm đôi thùng sắt đầy nước, tổng cộng phải đến hơn bốn trăm
cân. Hơn bốn trăm cân đó từ vai truyền xuống dưới xích sắt ở đôi bàn chân, đi tới
chẳng khác gì một cái đục lớn đục lên đá, cào sạch những đường vạch dọc ngang của
Hà Túc Ðạo. Nếu Giác Viễn chỉ đi chân không, thì không cách nào có thể làm được.
Tuy thế, mặc dù có mượn lực thật, nhưng cũng là thần công ít có ở trên đời.
Ỷ Thiên Ðồ Long Ký, chương 2 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)
Thiên Long Bát Bộ thì còn phức tạp hơn với bàn cờ
giữa Hồng Mi Tăng và thanh bào quái khách Ðoàn Diên Khánh đánh dấu sự tái xuất
của Thiên Hạ Ðệ Nhất Ác Nhân và cuộc tranh chấp trong hoàng gia Ðại Lý. Ở giữa
truyện, ván cờ Trân Lung kỳ diệu đưa tới một biến động bất ngờ trong võ lâm:
... Hư
Trúc mở mắt ra nhìn, không khỏi đỏ mặt. Thì ra khi y nhắm mắt để đại xuống một
quân, sao lại trúng ngay một đám quân trắng đang bị quân đen bao vây không còn
hở chỗ nào lọt ra được. Ðám quân trắng đó vốn dĩ còn một nước nữa, quân đen lúc
nào đặt xuống cũng ăn sạch, nhưng nếu như đối phương không rảnh rỗi để hạ kỳ
thì cũng còn có đường sống, mà bên trắng cố gắng vùng vẫy cũng chỉ ở một nước
đó mà thôi. Thế nhưng lúc này y lại đem quân mình ăn quân mình, trong phép chơi
cờ chưa từng có ai đi lối tự sát như thế. Quân trắng chết rồi, phe mình coi như
tan rã.
Ngờ đâu, chính nước cờ tự sát đó đã mở đường
cho một cục diện mới để bên trắng chuyển nguy thành an, từ từ lấy lại được
phong độ:
... Nước
cờ đó quả là rất cao. Trong ba mươi năm qua, Tô Tinh Hà đã suy nghĩ tất cả những
thiên biến vạn hóa của thế cờ này, sách giải thuộc nằm lòng, dẫu đối phương đi
nước nào cũng không qua khỏi những gì ông ta đã nghĩ tới. Thế nhưng Hư Trúc thoạt
đầu nhắm mắt đặt bừa một quân, tự mình giết chết một đám quân mình vi phạm phép
đánh cờ rất nặng, dù người chỉ hơi biết đánh cờ cũng không ai lại làm thế.
Cái cách
đó chẳng khác gì tự mình giơ kiếm vung đao lên cứa cổ mình. Ngờ đâu sau khi y
nhắm mắt đặt một quân giết của mình một khối lớn rồi, cục diện lại thấy thông tỏ
hơn, bên quân đen tuy có lợi lớn nhưng quân trắng lúc này cũng còn có cơ chống
đỡ, không phải như trước bó chân bó tay, được chỗ nọ mất chỗ kia. Cục diện mới
này Tô Tinh Hà dù có nằm mơ cũng không sao nghĩ tới được. Ông ta ngạc nhiên,
suy nghĩ một lúc lâu, lúc đó mới đi một quân đen.
Thì ra
khi Hư Trúc trông thấy Tô Tinh Hà đánh ra một chưởng uy hiếp, sư bá tổ cũng
không lên tiếng giải vây cho mình, còn đang bàng hoàng lo lắng, bỗng nghe một
tiếng nói nho nhỏ truyền vào trong tai:
- Ðể vào bình vị ở nước tam cửu.
Hư Trúc
chẳng cần biết ai là người chỉ điểm mình, cũng không cần biết đúng hay sai, cầm
ngay quân trắng, theo đúng lời dặn hạ vào bình vị tam cửu. Ðến khi Tô Tinh Hà
đi một quân đen nữa rồi, giọng nói đó lại truyền vào tai Hư Trúc:
- Bình vị nhị bát.
Hư Trúc
lại đặt một quân trắng xuống nước bình vị nhị bát. Quân cờ đi rồi, chỉ nghe Cưu
Ma Trí, Mộ Dung Phục, Ðoàn Dự cả bọn đều ồ lên một tiếng. Hư Trúc ngẩng đầu
lên, thấy mọi người ai nấy tỏ vẻ ngạc nhiên, đồng thời khâm phục đủ biết nước
đi của mình thật tinh diệu, lại thấy vẻ mặt Tô Tinh Hà vừa mừng rỡ sung sướng
nhưng cũng nóng nảy bồn chồn, đôi lông mày dài không ngớt nhô lên hụp xuống.
Hư Trúc
trong bụng khởi nghi: “Sao ông ta đột nhiên lại cao hứng thế? Không lẽ nước cờ
mình đi sai rồi chăng?”. Thế nhưng lại lập tức nghĩ ngay: “Không cần biết đi
đúng hay sai, chỉ cần mình đi được mười nước trở lên, đủ để biết rằng mình cũng
có đường đi nước bước, không phải đến quấy rối làm loạn nước cờ, hối nhục tiên
sư của ông ta, lúc đó sẽ không trách mình được nữa”. Ðến khi Tô Tinh Hà đi một
quân đen nữa, y lại theo đúng người nào đó ám trung tương trợ chỉ điểm, hạ một
quân trắng. Hư Trúc một mặt hạ kỳ, một mặt chú tâm quan sát, có phải sư bá tổ
bí mật giúp đỡ mình hay không, nhưng thấy Huyền Nạn thần tình ra chiều nóng ruột,
xem ra không phải, huống chi trước sau ông ta không mở miệng nói câu nào.
Người
đưa tiếng nói truyền vào tai y nội lực phải cực kỳ thâm hậu, hiển nhiên là
“truyền âm nhập mật” dùng thượng thừa nội công truyền lời nói thẳng vào tai y,
người khác dù có đứng ngay bên cạnh cũng không nghe thấy gì cả.
Thế
nhưng dù tiếng nói có nhỏ tới mực nào thì miệng vẫn phải mấp máy, Hư Trúc lén
quan sát môi mọi người, không thấy người nào động đậy, vậy mà câu: “Ðể xuống vị
trí ngũ lục” vẫn vào tai y thật rõ ràng. Hư Trúc đúng theo đó mà đi, nghĩ thầm:
“Dạy ta ngoài sư bá tổ ra thì còn ai nữa. Những người khác với mình vô thân vô
cố, việc gì phải giúp mình? Trong những cao thủ ở đây, chỉ có mình sư bá tổ
chưa đánh cờ, còn ai cũng đã thử qua và cũng đã thua rồi. Sư bá tổ thần công
phi phàm, thành ra không mấp máy môi vẫn có thể “truyền âm nhập mật”, ta không
biết đến bao giờ mới tu luyện được đến mức đó”.
Y có biết
đâu người chỉ cho y lại chính là thiên hạ đệ nhất ác nhân có cái ngoại hiệu Ác
Quán Mãn Doanh Ðoàn Diên Khánh. Vừa rồi Ðoàn Diên Khánh chìm sâu mê mẩn vào cuộc
cờ, bị Ðinh Xuân Thu thừa cơ dậu đổ bìm leo, định đẩy y vào chỗ tẩu hỏa nhập
ma, tự sát thân vong, cũng may Hư Trúc làm loạn nước cờ mới cứu mạng cho y được.
Y thấy Tô Tinh Hà nặng lời trách mắng Hư Trúc, có ý muốn giết chú tiểu này nên
buông lời chỉ điểm, cố ý giải vây, để cho nhà sư có dịp thoái lui. Y giỏi về
thuật phúc ngữ, khi nói không cần phải mấp máy môi, lại thêm nội công thâm hậu
nên biết cách “truyền âm nhập mật”, tuy bên cạnh có mấy cao thủ hạng nhất nhưng
vẫn không ai khám phá ra.
Thế
nhưng sau mấy nước, cuộc diện lại biến hóa mãnh liệt, Ðoàn Diên Khánh nắm ngay
được cái bí áo của bàn cờ Trân Lung này. Ðó là bên trắng phải tự giết một số
quân của mình trước, sau đó những chỗ kỳ diệu mới liên tục sinh ra. Trong phép
đánh cờ có những nước phản phác, đảo thoát ngoa, tự mình cố ý đi vào chỗ chết để
nhử cho đối phương ăn quân, sau đó sẽ lật ngược thế cờ nhưng có chết nhiều lắm
cũng chỉ tám chín quân, chứ đời nào lại nhường đến mấy chục quân bao giờ. Phép “tự
mình giết mình” quả là trong môn cờ vây nghìn năm chưa ai thấy, dù cho loại cao
thủ đến mức thần thánh cũng không ai dám nghĩ đến một nước cờ như vậy. Ai ai
cũng chỉ nghĩ đến làm sao thoát khỏi khốn cảnh để tìm đường sống, chứ có ai lại
nghĩ đến nước đi vào cửa tử để tìm đường ra, nếu không phải Hư Trúc nhắm mắt, thuận
tay đặt bừa một nước cực kỳ ngốc nghếch đó, e rằng một nghìn năm sau, ván cờ
Trân Lung này cũng không ai giải được.
Kỳ thuật
của Ðoàn Diên Khánh vốn đã cực cao minh, hôm xưa đánh cờ với Hồng Mi tăng nước
Ðại Lý đã làm cho nhà sư này không còn đường chống đỡ, lúc này bên trắng đã mất
đi một mảng lớn, thế đánh bỗng rộng rãi ra nhiều, chẳng nghĩ tới đám quân mình
vừa mất, cũng không nghĩ tới cục diện bó chân bó cẳng mới rồi, tự nhiên thoải
mái mà đi quân không phải vào cảnh tiến thoái lưỡng nan như trước.
Cưu Ma
Trí, Mộ Dung Phục đâu có biết Ðoàn Diên Khánh đứng ngoài chỉ điểm, chỉ thấy Hư
Trúc nước nào ra nước nấy, ăn luôn hai khối cờ đen, nhịn không nổi phải tấm tắc
khen ngợi.
Huyền Nạn
lẩm bẩm nói một mình:
- Cuộc cờ này vốn quấn quít trong trường
thắng bại đắc thất, cho nên không thể nào phá giải được. Nước cờ của Hư Trúc
không còn màng sinh tử, cũng không chấp trước được thua, hóa ra vượt ra khỏi
vòng sống chết, đạt tới giải thoát ...
Ông mang
máng thấy có chỗ sở ngộ, nhưng lại chưa nắm được, biết mình cả đời chuyên lo võ
học, khiếm khuyết công phu thiền môn, bỗng nghĩ ra: “Lung Á tiên sinh và Hàm Cốc
bát hữu chuyên về tạp học, cho nên võ công không bằng được Ðinh Xuân Thu, ta
trước đây cười chê họ đi vào ngã rẽ. Thế nhưng ta cả đời luyện tập võ công,
không chăm lo tham thiền để vượt vòng sinh tử, có phải cũng đi vào sai lầm hay
không?”. Ông nghĩ đến đó, tự nhiên toàn thân mồ hôi toát dầm dề.
Kim Dung: Thiên
Long Bát Bộ – chương 31 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)
Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ chúng ta lại thấy vì
tính mê cờ của Hắc Bạch Tử đã khiến cho Hướng Vấn Thiên có cơ hội lọt vào Mai
Trang cứu thoát Nhậm Ngã Hành.
... Hướng Vấn Thiên nói:
- Thì ra là thế! Ví như hiệp sĩ tầm thường,
uống rượu vào chỉ thêm cay thêm đắng, cũng chẳng hề chi. Thế nhưng nhị trang chủ,
tứ trang chủ ẩn cư ở cạnh Tây Hồ, phong cảnh tú lệ, thanh cao như thế, so với
những kẻ thô lỗ trong võ lâm thật khác xa. Rượu này một khi đã ướp lạnh rồi,
hơi nồng bay hết, thật hợp với thân phận của hai vị cao nhân. Cũng như đánh cờ,
dùng sức để bắt quân, sát phạt nhau, ấy là kỳ phẩm của bọn tầm thường, chứ bậc
hạng nhất hạng nhì thì phải nhập thần toạ chiếu ...
Ðôi mắt
quái dị của Hắc Bạch Tử nhướng lên, chộp lấy vai y, hỏi dồn:
- Ngươi
cũng biết đánh cờ ư?
Hướng Vấn
Thiên đáp:
- Tại hạ bình sinh thích đánh cờ nhất, tiếc
rằng kỳ lực không cao, thành thử đi khắp Giang Nam, Giang Bắc, trên dưới Hoàng
Hà, sưu tầm kỳ phổ. Trong ba mươi năm qua, các danh cục xưa nay, trong dạ thuộc
lòng không phải ít.
Hắc Bạch
Tử giục giã:
- Thế nhớ được những bàn cờ nào?
Hướng Vấn
Thiên đáp:
- Chẳng hạn như bàn cờ mà Vương Chất gặp
tiên trên núi Lạn Kha hay Lưu Trọng Phủ đánh cờ với tiên ở Lư Sơn hay Vương
Tích Tân đánh với con chồn thành tinh ...
Y nói
chưa dứt câu, Hắc Bạch Tử đã lắc đầu cuồi cuội, nói:
- Những chuyện thần thoại đó, ai mà tin
cho nổi? Không lẽ có chép trong kỳ phổ thực hay sao?
Y vừa
nói vừa buông vai Hướng Vấn Thiên ra. Hướng Vấn Thiên nói:
- Lúc đầu tại hạ cũng cho rằng chẳng qua
chỉ là chuyện của kẻ hiếu sự nguỵ tạo ra, thế nhưng hai mươi lăm năm trước thấy
được đồ phổ bàn cờ Lưu Trọng Phủ đánh với Lư Sơn lão mỗ, quả là tinh vi, người
thường không sao đi được, từ đó mới chắc mười mươi, tin chắc không phải hư
ngôn. Không lẽ tiền bối cũng thích kỳ đạo hay sao?
Ðan
Thanh Sinh cười lên ha hả, bộ râu rậm lại tung bay, Hướng Vấn Thiên hỏi:
- Tiền bối cớ sao cười như thế?
Ðan
Thanh Sinh đáp:
- Ngươi hỏi nhị ca ta có thích đánh cờ hay
chăng? Ha ha ha! Ðạo hiệu của nhị ca ta là Hắc Bạch Tử , liệu xem y có thích
đánh cờ hay chăng? Nhị ca ta thích cờ thật chẳng khác gì ta thích rượu.
Hướng Vấn
Thiên vội chống chế:
- Tại hạ nói lăng nhăng, thật đúng là múa
búa trước cửa Lỗ Ban, xin nhị trang chủ đừng trách.
Hắc Bạch
Tử nói:
- Có thực là ngươi đã xem qua đồ phổ của
Lưu Trọng Phủ đối dịch với Lư Sơn tiên mỗ ư? Ta xem người xưa có viết, đọc rồi
nhớ được ấy là Lưu Trọng Phủ là quốc thủ đương thời, đi qua chân núi Lư Sơn gặp
một mụ già nhà quê đánh cho đại bại, khiến hộc ra mấy thăng máu, thành thử bàn
cờ đó được mệnh danh là “Ẩu Huyết Phổ”. [38]
Không lẽ bàn cờ hộc máu ấy trên đời này có thật sao?
Khi y
vào trong phòng thần tình lãnh đạm nhưng lúc này lại mười phần quan thiết. Hướng
Vấn Thiên nói:
- Hai mươi lăm năm trước, tại Thành Ðô, Tứ
Xuyên tại hạ đã thấy được ở một căn nhà cũ của một thế gia ván cờ này, nước đi
thật là kinh tâm động phách. Cho nên tuy đã hai mươi lăm năm qua mà toàn bộ một
trăm mười hai nước, tới nay vẫn còn nhớ như in.
Hắc Bạch
Tử hỏi:
- Cả thảy
một trăm mười hai nước ư? Ngươi bày ra cho ta xem nào. Mau mau, đi sang kỳ thất
của ta để xếp cờ.
Ðan Thanh Sinh đưa tay chặn lại, nói:
- Khoan đã! Nhị ca chưa chế băng cho tiểu
đệ, không cách nào để nhị ca đi được.
Nói rồi bưng tới một cái bồn sứ trắng, trong bồn đựng
đầy nước trong. Hắc Bạch Tử thở dài:
- Bốn anh em mỗi người có một say mê
riêng, thật còn biết nói sao đi nữa?
Y đưa ngón tay trỏ bên phải vào trong bồn nước. Chỉ
trong giây lát, mặt nước đã toả ra một làn hơi mờ mờ, chẳng bao lâu, thành bồn
cũng bốc lên một lớp sương trắng, trên mặt nước kết thành từng miếng băng mỏng,
càng lúc càng dày, chỉ độ thời gian uống một chén trà, cả một bồn nước đều đông
thành đá lạnh.
Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung đều lớn tiếng reo hò.
Hướng Vấn Thiên nói:
- Công phu Hắc Phong Chỉ này nghe nói thất
truyền trong võ lâm đã lâu, ngờ đâu nhị trang chủ ...
Ðan
Thanh Sinh xen vào:
- Ðây không phải là Hắc Phong Chỉ mà là
Huyền Thiên Chỉ, so với công phu bá đạo của Hắc Phong Chỉ thật cao thấp khác
nhau nhiều.
Y vừa
nói vừa đặt bốn cái chén lên mặt băng, rót rượu bồ đào vào, chẳng mấy chốc trên
mặt rượu cũng có những tia bạch khí. Lệnh Hồ Xung nói:
- Ðược rồi!
Ðan
Thanh Sinh cầm chén rượu lên, uống một hơi cạn sạch, thấy quả vừa đậm đà, vừa
thuần khiết, vị lạ không còn, lại thêm một chút thanh lương thấm vào tì vị, tấm
tắc khen:
- Ngon thực! Ta nấu rượu đã tài, Phong
huynh đệ bình phẩm cũng hay, cách chế băng của nhị ca lại càng tuyệt. Còn ngươi
thì sao?
Y nói rồi
nhìn Hướng Vấn Thiên, cười tiếp:
- Ngươi đứng ở bên cạnh, thêm mắm dặm muối,
tài tung hứng cũng khéo lắm.
Hắc Bạch
Tử bưng rượu lên uống xong, chẳng cần biết tửu vị ngon hay dở, cầm tay Hướng Vấn
Thiên nói:
- Ði thôi, đi thôi! Bày bàn cờ Ẩu Huyết Phổ
của Lưu Trọng Phủ cho ta xem nào.
Hướng Vấn
Thiên nắm tay áo Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ Xung hiểu ý nói:
- Tại hạ cũng đi xem.
Ðan
Thanh Sinh nói:
- Xem làm gì? Chi bằng ngươi với ta ở đây
hai người uống rượu.
Lệnh Hồ
Xung đáp:
- Hai người mình vừa uống rượu, vừa xem
đánh cờ.
Nói xong
sóng bước cùng Hướng Vấn Thiên và Hắc Bạch Tử đi ra. Ðan Thanh Sinh không còn
sao hơn, đành cắp luôn vò rượu lớn kia theo sang kỳ thất. Chỉ thấy một gian
phòng khá lớn, ngoài một chiếc bàn đá, hai chiếc đệm ra, không còn gì khác,
trên mặt bàn khắc một bàn cờ ngang dọc mười chín đường, trên để một hộp quân trắng,
một hộp quân đen. Kỳ thất này ngoài bàn cờ và hai hộp quân kia không để thêm một
thứ gì, cốt cho người đánh khỏi phân tâm.
Hướng Vấn
Thiên đến trước thạch kỷ, bày lên bốn góc bình thượng khứ nhập bốn quân thế,
sau đó ở nước bình lục tam lại để thêm một quân trắng, rồi nơi cửu tam để xuống
một quân đen, tại nước lục ngũ đặt một quân trắng, tại nước cửu ngũ một quân trắng
nữa, cứ liên tiếp đặt quân càng lúc càng chậm dần.
Hai bên
đen trắng càng đấu càng thêm ác liệt, không để hở ra một nước nào, Hắc Bạch Tử
nhìn vào mà mồ hôi trên trán rơi lã chã. Lệnh Hồ Xung cũng
kinh hãi thầm, mới đây thấy y dùng Huyền Thiên Chỉ hoá thuỷ thành băng, đủ biết
là người nội công cao thâm biết chừng nào nên chuyện đó chẳng coi vào đâu; vậy
mà một việc nhỏ là đánh cờ y nhìn mà mồ hôi đầm đìa, đủ biết quan tâm đến loạn
trí, người này mê quá hoá si, hẳn là Hướng Vấn Thiên bắt thóp được nhược điểm của
y nên ra tay tấn công vào.
Hắc Bạch
Tử thấy Hướng Vấn Thiên để đến quân thứ sáu mươi sáu rồi, một lúc lâu sau vẫn
chưa đặt thêm quân khác, nhịn không nổi cất tiếng hỏi:
- Quân sau đó đi thế nào?
Hướng Vấn
Thiên mỉm cười hỏi lại:
- Chỗ này chính là rốt ráo, theo cao kiến
của nhị trang chủ thì phải đi thế nào?
Hắc Bạch
Tử suy nghĩ hồi lâu, trầm ngâm:
- Quân này ư? Ðoạn cũng không xong, liên
cũng chẳng ổn, hoành cũng không được, mà hoạt cũng chẳng đến đâu. Cái đó ...
cái đó ...
Tay y cầm
một quân trắng, đưa ra toan đặt nhưng có đến khoảng một bữa ăn, thuỷ chung vẫn
chưa hạ xuống bàn cờ được. Trong thời gian đó, Ðan Thanh Sinh và Lệnh Hồ Xung
hai người đã uống đến mười bảy mười tám chén bồ đào mỹ tửu rồi.
Ðan
Thanh Sinh nhìn thấy mặt Hắc Bạch Tử càng lúc càng tái đi, liền nói:
- Ðồng lão huynh, đây là Ẩu Huyết Phổ,
không lẽ ngươi định để cho nhị ca ca ta nghĩ đến hộc máu ra ư? Ði một quân thì
có gì đâu, sao không nói huỵch toẹt ra cho rồi?
Hướng Vấn
Thiên đáp:
- Ðược rồi, quân thứ sáu mươi bảy hạ xuống
đây.
Nói rồi
tại thượng bộ thất tứ y để một quân. Hắc Bạch Tử vỗ đùi một cái, kêu lên:
- Hay lắm, quân đó đi ở đây thật là tuyệt
diệu.
Hướng Vấn
Thiên mỉm cười:
- Lưu Trọng Phủ đi nước đó quả là hay thiệt
nhưng có chăng cũng chỉ là diệu kỳ của bậc quốc thủ dưới nhân gian, so với Lư
Sơn tiên mỗ thì còn kém xa.
Hắc Bạch
Tử vội hỏi:
- Thế nước cờ tiên của Lư Sơn tiên mỗ đi
như thế nào?
Hướng Vấn
Thiên hỏi lại:
- Sao nhị trang chủ không thử nghĩ coi.
Hắc Bạch
Tử nghĩ ngợi một lúc, xem ra thua chắc rồi, không cách gì lật ngược lại được, lắc
đầu:
- Nếu là nước cờ tiên thì một kẻ phàm phu
tục tử như ta làm sao nghĩ ra cho được? Ðồng huynh không cần phải thách đố nữa.
Hướng Vấn
Thiên mỉm cười nói:
- Thần cơ diệu toán như nước này, quả là
chỉ thần tiên mới nghĩ ra được.
Hắc Bạch
Tử là kẻ giỏi cờ, nên cũng đoán ngay được tâm ý đối phương, thấy Hướng Vấn
Thiên không chịu bày bàn cờ một cách sảng khoái khiến cho kẻ si mê càng thêm ngứa
ngáy, liệu chừng y có điều gì muốn cầu liền nói:
- Ðồng huynh, ngươi đem bàn cờ này nói cho
ta nghe, ta chẳng ăn không của ngươi đâu.
Kim Dung, Tiếu Ngạo Giang Hồ, chương 19 (bản dịch Nguyễn Duy
Chính)
Ẩu Huyết Phổ
Kim Dung: Tiếu Ngạo Giang Hồ, quyển
2, phụ bản 14, 15
KẾT LUẬN
Cờ vây là một trò chơi trí óc, cần suy nghĩ và tiềm
tâm nghiên cứu, một thú chơi tao nhã cho mặc khách tao nhân, không phải cho giới
bình dân. Theo nhận định của lãnh sự Anh Giles thì học đánh cờ là một đòi hỏi một
khi người ta bước chân vào một nghề nghiệp văn chương (literary career).
Jacques Gernet cũng nói rằng vào đời Tống đánh cờ là một trong ba môn (cờ, thư
pháp và thi văn) dành riêng cho giới quí tộc. [39]
Muốn thành một cao thủ, người ta phải trau giồi lâu năm và cũng phải đam mê nồng
nhiệt.
Nhiều sách vở cũng cho rằng đánh cờ là một cách
trau giồi binh pháp và nhân cách lãnh đạo. Khẳng định đó đúng đến đâu thật khó
mà có câu trả lời. Tuy nhiên không phải lúc nào đánh cờ cũng được coi là tao
nhã. Nhiều nhà nho đã nhìn thấy cái hại của việc đam mê vi kỳ và đả kích tệ nạn
này. Ðời Tam Quốc đánh cờ lan rộng trong cung Ðông Ngô đến nỗi Vi Diệu (韋曜) phải dâng một bài biểu nhan đề Bác Dịch Luận (博弈論)[40] để đàn hặc trong đó có những
câu:
Nếu để dùng trong chiến trận thì
làm sao sánh được với Tôn Ngô, nếu nói về đạo nghệ thì chẳng thể nào bằng những
người trong cửa Khổng. Còn nói về biến trá thì bỏ qua sự trung tín, nếu lấy
chuyện chém giết làm trọng thì còn đâu lòng nhân từ.
求之於戰陣, 則非孫吳之倫也。 考之於道藝, 則非孔氏之門也。 以變詐為務, 則非忠信之事也。以劫殺為名, 則非仁者之意也.
Cầu chi ư chiến trận, tắc phi Tôn Ngô chi luân
dã. Khảo chi ư đạo nghệ, tắc phi Khổng thị chi môn dã. Dĩ biến trá vi vụ, tắc
phi trung tín chi sự dã. Dĩ kiếp sát vi danh, tắc phi nhân giả chi ý dã.
Lịch sử đã chứng minh rằng vào những thời kỳ thịnh
vượng nhất của một triều đại, con người có nhiều cơ hội hưởng thụ và xa phí thì
cũng lại là thời kỳ báo hiệu cho sự suy vi và tiếp đến sẽ là loạn lạc, bị những
quốc gia khác xâm lăng. Dường như định luật đó vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Trong thiên khảo luận này, chúng tôi có đính kèm
hai bản kỳ phổ hiếm có, Lạn Kha Phổ và Ẩu Huyết Phổ để chư vị cao nhân tham khảo.
Người viết hoàn toàn không biết gì về môn cờ vây nên không dám bình phẩm.
Nguyễn Duy Chính
Tháng 7, 2005
TÀI LIỆU THAM KHẢO
----
1. Ân, Vĩ (殷偉). Trung Quốc Vi Kỳ Sử Diễn Nghĩa (中國圍棋史演義) Vân Nam: Vân Nam Nhân Dân xuất bản xã, 2003.
2. Cao, Xuân Dục. Viêm Giao Trưng Cổ Ký [bản dịch Nguyễn Văn Nguyên]
Hà Nội: Thời Ðại, 2010.
3. Ðại Trúc Anh Hùng (大竹英雄): Sơ Học Vi Kỳ Nhập Môn (初學圍棋入門). Ðài Nam: Tín Hoành xb xã, 1990. Nguyên tác tiếng Nhật, bản
Hán dịch của Tạ Vĩ Nhân (謝偉仁).
4. Ðại Từ Ðiển Tiếng Việt. Hà Nội: nxb Văn
Hóa Thông Tin, 1998.
5. Dư, Gia Hoa (余嘉華). Vân Nam Phong Vật Chí (雲南風物志). Côn Minh: Vân Nam Nhân Dân xb xã, 1982.
6.
Gernet, Jacques: Daily Life in China on
the Eve of the Mongol Invasion 1250-1276. Calif: Stanford University Press, 1962. Bản dịch
của George Allen sang tiếng Anh từ nguyên tác La vie quotidienne en Chine à
la vielle de l’invasion mongole, 1250-1276 (Paris: Hachette, 1959).
7. Grunfield, Frederic V. (ed.). Games of the World. New York:
Holt, Rinehart and Winston, 1975.
8. Kim Dung (金庸): Thiên Long Bát Bộ (天龍八部) (5 cuốn) Hương Cảng: Viễn Ảnh xb sự nghiệp công ty, 1981.
9. Kim Dung (金庸): Tiếu Ngạo Giang Hồ (笑傲江湖) (4 cuốn) Hương Cảng: Minh Hà Xã, 1980.
10.
Kim Dung (金庸): Ỷ Thiên Ðồ
Long Ký (倚天屠龍記) (4 cuốn). Hương Cảng: Minh Hà Xã, 1976.
11.
Lâm, Lê Na (林莉娜). Minh Thanh
Cung Đình Hội Họa Nghệ Thuật Giám Thưởng (明清宮廷繪畫藝術鑑賞). Đài Bắc : Cố
Cung, Dân Quốc 102 (2013)
12.
Sử, Lương Chiêu (史良昭). Bác Dịch Du Hí Nhân Sinh (博弈遊戲人生). Hongkong: Thương
Vụ Ấn Thư Quán, 1992.
13.
Thiệu, Văn Lương (邵文良). Trung Quốc Cổ Ðại Thể Dục - 中國古代體育 (Sports in
Ancient China) Bắc Kinh: Nhân Dân thể dục xuất bản xã,
1986.
14.
Trần, Ngọc Thuận, Ðào Duy Ðạt, Ðào Phương
Chi (dịch). Lịch Sử Văn Hoá Trung Quốc (2 tập). Hà Nội: nxb Văn Hoá –
Thông Tin, 1999.
[1] Phạm Tăng
là họa sĩ, thư pháp gia hiện đại, giáo sư đại học Bắc Kinh.
[2] tương truyền
là của Hồ Xuân Hương nhưng nhiều biên khảo gần đây cho thấy nữ sĩ phường Khán
Xuân không phải là tác giả những bài thơ dung tục này.
[3] Chess is
confined to the inhabitants of this earth, but Go somehow passes beyond our
world. If on any planet there are rational beings, then they know Go. Frederic
V. Grunfield (ed.), Games of the World, (New York: Holt, Rinehart and
Winston, 1975) tr. 42
[4] 堯造圍棋,以教子丹朱 (Nghiêu tạo vi kỳ, dĩ giáo tử Ðan Châu) Ân
Vi: Trung Quốc Vi Kỳ Sử Diễn Nghĩa (Vân Nam: Vân Nam nhân dân xb xã, 2003)
tr. 1
[5] Edward
Falkener, Games Ancient and Oriental and How to Play Them (New York:
Dover Publications, Inc., 1961) (reprinted of 1892 edition) tr. 239 - 240
[6] Thiệu Văn
Lương, Trung Quốc Cổ Ðại Thể Dục (Sports in Ancient China) (Bắc Kinh:
Nhân Dân thể dục xuất bản xã, 1986) tr. 170-1
[7] chữ ngạc
này một bên bộ chuy 隹 nhưng chúng
tôi không có nên tạm thay bằng bộ ấp 阝
[8] Từ Hải, Ðài
Loan thư cục 1974, Vol. 2 tr. 3104
[9] Dư Gia Hoa (余嘉華), Vân Nam Phong Vật Chí (雲南風物志) (Côn Minh: Vân Nam Nhân Dân xb xã, 1982) tr. 484
[10] 桄榔 arenga saccharifera, tiếng Việt gọi
là cây đoác hay đoát, còn gọi là báng, một loại cây trụ
lùn mọc ở vùng trung du nước ta. Ðại Từ Ðiển Tiếng Việt (Hà Nội: nxb Văn
hóa Thông tin, 1998) tr. 99
[11] 楸 Chinese catalpa hay mallotus
japonicus, thuộc họ nhà ruối, cao chừng 10 mét, gỗ săn chắc
[12]
榧 Torreya grandis là một loại
tùng bách mọc ở đông nam Trung Hoa.
[13] 銀杏Ginkgo biloba cây bạch quả, có trái ăn được dùng như một vị thuốc.
[14]
桂木Artocarpus parvus cây thuộc họ
mít, trái ăn được mọc ở nam Trung Hoa và Đông Nam Á.
[15] Ðại Trúc
Anh Hùng (大竹英雄), Sơ Học
Vi Kỳ Nhập Môn (初學圍棋入門) (Ðài
Nam: Tín Hoành xb xã, 1990) tr. 29.
[16] (勝者終年有福,負者終年疾病) thắng giả chung niên hữu phúc, phụ giả chung niên tật bệnh
[17] Cục tất phương chính, tượng địa tắc dã. Ðạo tất chính trực, thần minh
đức dã. Kỳ hữu hắc bạch, âm dương phân dã. Biền la liệt bố, hiệu thiên văn dã. (局必方正, 象地則也.道必正直, 神明德也. 棋有黑白, 陰陽分也. 駢羅列 效天文也)
[18] Thượng hữu
thiên địa chi tượng, thứ hữu đế vương chi trị, trung hữu ngũ bá chi quyền, hạ hữu
chiến quốc chi sự (上有天地之象, 次有帝王之治, 中有五霸之權, 下有戰國之事)
[19] Lược quan
vi kỳ, pháp ư dụng binh. Tam xích chi cuộc, vi chiến đấu trường. (略觀圍棋, 法於用兵. 三尺之局, 為戰鬥場)
[20] có cùng tên (Lưu Úc - 劉彧)
[21] 忘憂清樂在枰棋
[22] Tống đây là
Lưu Tống (Nam Triều) kéo dài từ 420 đến 479 chứ không phải nhà Tống sau này.
[23] Kháng thủ
thế, Xích Tùng đấu tử (抗取勢赤松鬥子)
[24] 江南棋客劉仲甫奉饒天下棋先
[25] Viễn bất khả
thái sơ, sơ tắc dị đoạn; cận bất khả thái xúc; xúc tắc thế luy
(遠不可太疏,疏則易斷; 近不可太促,促則勢羸)
[26] tất sử ứng
viện tương tiếp, câu lạc tương liên; bỉ lộ bất đắc bất xúc, bỉ thế bất đắc bất
luy
(必使應援 相接, 勾落相連; 彼路不得不促,彼勢不得不羸)
[27] 以實擊虛,以逸待勞
[28] tự Ảnh Viễn (影遠)
[29] như thiên
tiên hoá nhân, tuyệt vô trần tưởng (如天仙化人,絕無塵想)
[30] trị quốc dự chi ư dịch, tri kỳ dụng nhi trí
kỳ xứ giả thắng, bất tri kỳ dụng nhi trí phi kỳ xứ giả bại.
(治國譽之於弈,知其用而置得其處者勝。不知其用而置非其處者敗)
[31] vũ trụ tiện
thị ngô tâm, ngô tâm tức thị vũ trụ
(宇宙便是吳心,吳心即是宇宙)
[32] Phương như hành nghĩa, viên như đụng trí, động như sính tài, tĩnh như toại
ý
(方如行義,圓如用智,動如逞才,靜如遂意)
[33] thí quan nhất
thập cửu hàng, thắng độc nhị thập nhất sử (Kỳ Phú)
(試觀一十九行,勝讀二十一史) (棋賦)
[34] Ðại Trúc
Anh Hùng (大竹英雄) sđd. tr.
127
[35] Cao Xuân Dục,
Viêm Giao Trưng Cổ Ký [bản dịch Nguyễn Văn Nguyên] (Hà Nội: Thời Ðại,
2010) tr. 134
[36] Như hà nhất
cục thành thiên tải? Ứng thị tiên ông hạ tử trì.
(如何一局成千載? 應是仙翁下子遲)
[37] Phủ trường
kiếm, nhất dương mi
Thanh thủy bạch
thạch hà ly ly
撫長劍,一揚眉
清水白石何離離
(Lý Bạch – Phú phong hào sĩ ca)
[38] 嘔血譜
[39] Jacques
Gernet: Daily Life in China on the Eve of the Mongol Invasion 1250-1276
(Calif: Stanford University Press, 1962) tr. 152
[40] luận về cờ
bạc