TỪ
MỘT TIẾNG HÁT TRÊN BIỂN CẢ ...
Ở
chương 30 bộ Ỷ Thiên Ðồ Long Ký, Kim Dung đã cho một cô gái đang mê man trong cơn sốt hát hai câu:
Lai như lưu thủy hề, thệ như phong,
Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung.
來如流水兮逝如風
不知何處來兮何所終
Hai
câu thơ này theo như chú thích của tác giả là bản dịch một tác phẩm từ tiếng Ba Tư của nhà
thơ Quách Mạt Nhược. Ðoạn đó của Kim Dung dịch ra như sau:
… Ân Ly hát khúc hát đó rồi, sau đó lại thêm một bài khác, lần này tiếng ca hết sức ngụy
bí, không giống điệu hát Trung Thổ chút nào, nghe cho kỹ thấy từ ý cũng giống như khúc hát của Tiểu Chiêu:
Ðến
như nước chảy xuôi khe,
Ði như gió cuốn biết về nơi nao.
Cuộc
đời như thể chiêm bao,
Về đâu rồi sẽ ra sao bây chừ?
Nàng cứ hát đi
hát lại hai câu ấy mãi, càng lúc càng nhỏ dần, đến khi tiếng hát lẫn vào tiếng sóng, tiếng gió không còn nghe thấy gì nữa. Mọi người nghĩ đến sinh tử vô thường, cõi nhân sinh như nước sông chảy mãi không hiểu từ đâu mà đến, dẫu cho anh hùng hào
kiệt cũng không ai qua khỏi được cái chết, có khác gì gió mát kia chẳng biết
thổi về nơi nào.
Thêm
xuống một chút cũng chính Kim Dung giải
thích nguyên ủy của hai câu thơ này mượn lời
kể của Tạ Tốn:
… Minh giáo truyền từ Ba Tư, khúc hát Ba Tư này có uyên nguyên với Minh giáo nhưng không
phải là bài ca của Minh giáo. Bài hát này là do một vị thi nhân rất nổi tiếng
của Ba Tư hơn hai trăm năm trước
đây tên là Nga Mặc làm, nghe nói người Ba Tư ai ai cũng
biết cả. Năm xưa khi ta nghe khúc hát này thấy hay quá nên có hỏi Hàn phu nhân
về lai lịch của bài ca, bà ta có kể rõ ràng đầu đuôi cho ta nghe.
Ngày đó đại triết gia của Ba Tư là Dã Mang mở trường
dạy học, môn hạ có ba đệ tử kiệt
xuất: Nga Mặc giỏi về văn học, Ni
Nhược Mâu giỏi về chính trị còn Hoắc Sơn giỏi về võ công.
Ba người hợp tính nhau nên cùng thề ước nếu giàu sang sẽ không quên nhau. Về
sau Ni Nhược Mâu đường mây rong ruổi được làm Thủ tướng của
Giáo Vương. Hai người bạn cũ cũng tới, Ni Nhược Mâu xin với Giáo Vương phong
quan chức cho Hoắc Sơn. Nga Mặc không muốn làm quan, chỉ xin một món tiền bổng hàng năm để có thì giờ nghiên cứu thiên văn lịch số, uống
rượu ngâm thơ. Ni Nhược Mâu mọi việc đều ưng thuận, đối xử thật hậu hĩ.
Ngờ đâu Hoắc Sơn vẫn mang hùng tâm không chịu ở dưới người
khác, âm mưu phản loạn. Việc y làm thất bại bèn kết tụ đồng đảng vào
trong núi thành một thủ lãnh tông phái
uy chấn thiên hạ, gọi là phái Y Tư Mỹ Lương chuyên ám sát giết người. Thời Thập
Tự Quân, người Tây Vực khi nói đến tên Sơn Trung lão nhân Hoắc Sơn, không ai là
không kinh sợ. Thời đó vua các nước Tây Vực bị chết về tay các thủ hạ của Hoắc
Sơn không biết bao nhiêu mà kể.
Hàn phu nhân nói rằng, bên phía cực tây ngoài biển
khơi có một đại quốc, tên là Anh Cách Lan, vua nước đó là Ái Ðức Hoa có lỗi với
Sơn Trung lão nhân bị y sai người hành thích. Quốc vương bị trúng dao tẩm
thuốc độc, may nhờ vương hậu xả thân cứu chồng, hút chất độc ở vết thương ra,
nhờ thế nhà vua mới thoát chết. Hoắc Sơn chẳng kể gì đến ân nghĩa ngày xưa, lại
sai người giết chết Thủ tướng Ba Tư là Ni Nhược Mâu. Khi sắp chết, Thủ tướng ngâm bài thơ của Nga Mặc, chính
là hai câu ―Ðến như nước chảy hề, đi như gió, Ai biết về đâu hề, rồi ra
sao?‖. Hàn phu nhân cũng có nói rằng về sau võ công của Sơn Trung Lão Nhân do
Minh giáo học được. Ba sứ giả Ba Tư võ công quái dị lạ lùng, có lẽ học từ Sơn
Trung lão nhân.
(Ỷ Thiên Ðồ Long Ký, ch.
30 – Kim
Dung,
bản dịch Nguyễn Duy Chính)
... ÐẾN MỘT NHÀ THƠ BA TƯ
Hai câu thơ trên
được nhiều người
xem như một câu hỏi nhân
sinh mãi mãi đi tìm câu trả lời.
Thế nhưng câu chuyện
kể trên dựa vào đâu hay chỉ là
một trong những dật sự mà Kim Dung
tưởng tượng ra để thêm phần hấp dẫn. Chính người
viết cũng đã thắc mắc trong một thời gian dài
và có lẽ không bao giờ để ý đến nữa nếu không làm công việc dịch lại bộ Ỷ Thiên
Ðồ Long Ký.
Cứ
theo Kim Dung, Nga Mặc ở vào khoảng hơn 200 năm trước thời đại của bộ Ỷ Thiên Ðồ Long Ký, mà bộ truyện này lấy bối cảnh
cuối đời Nguyên (thế kỷ thứ 14) nghĩa là nhà thơ này sống vào khoảng cuối thế
kỷ thứ 11, đầu thế kỷ thứ 12.
Nga Mặc đây là Omar Khayyám
(1048-1123)1 một nhà thơ rất nổi tiếng của Ba Tư với cái tên dài ngoằng
ngoẵng là Ghiyáthuddin Abulfath
Omar bin Ibráhim
al-Khayyámi – mà nghĩa của nó
1 Encyclopaedia Britannica ghi là 1122
là Omar, con trai của Abraham, người chế tạo lều (tent-maker). Ông gốc
người Naishapur vùng Khorassán và khi còn trẻ cũng làm nghề của cha nhưng đã
thành danh để được hậu thế nhắc đến như một thi sĩ, toán học gia, thiên văn
gia, triết gia rất nổi tiếng. Nhiều công trình thiên văn của ông rất chính xác
đến mức chúng ta ngày nay phải kinh ngạc. Những khi rảnh rỗi ông cũng làm những bài thơ tứ tuyệt (quatrain), mỗi bài bốn câu
diễn tả quan niệm nhân sinh có nhiều suy nghĩ
khác hẳn với tin tưởng của đương thời: ông không mấy quan tâm đến sau khi chết,
và đã dám tuyên bố một câu rất hiện sinh: Ta,
chính ta đây, là Thiên Ðường và Ðịa Ngục (I, myself, am Heaven and Hell).
Ông
được Nizám ul-Mulk
(Ni Nhược Mâu) là quốc sư của vua Malik-Shah, mời về triều, và nhà
vua đặt trông coi và thiết lập một đài thiên văn để tính toán lịch số. Trong
chính một bản tự sự (Wasiyat hay Testament) của chính Nizám ul-Mulk đã trần
thuật mọi việc như sau:
… Một trong những nhà thông thái vĩ đại nhất của Khorassán là
Imam Mowaffak tại Naishápúr, một người được nhân dân yêu mến và kính nể – với
ân sủng của Thượng Ðế soi rọi linh hồn ông nên đã thọ đến ngoài tám mươi nhăm
và người ta tin rằng những ai đọc kinh Koran
và học hỏi với ông đều đạt được
danh vọng cùng hạnh phúc.
Chính vì thế cha
tôi đã gửi tôi đến học với ngài và được thương
yêu với biệt nhãn nên đã học ở đây tới
bốn năm.
Khi tôi tới đây, có hai người khác cũng trạc tuổi tôi cũng
vừa đến. Một người là Hakim Omar Khayyám (Nga Mạc) và người kia là Hasan Ben
Sabbáh (Hoắc Sơn 1034-1124). Cả hai đều lanh lợi và nhiều năng lực nên ba chúng
tôi kết thành bạn tâm giao. Khi Imám
bãi lớp, chúng tôi thường gặp nhau để ôn lại bài vừa mới học. Omar quê ở
Naishápúr còn cha của Hasan Ben Sabbáh thì là một người sống đạo đức và nghiêm khắc nhưng tính khí hơi khác thường.
Một hôm Hasan
nói với tôi và Khayyám:
―Người ta bảo rằng những
người học trò của Imám Mowaffak sẽ thành danh. Như thế một trong chúng ta sau
này sẽ giàu có vậy mình có nên ước hẹn với nhau chăng?‖. Chúng tôi hỏi:
―Thế ngươi muốn gì?‖. Y đáp: ―Mình hãy lập một lời nguyền, sau này khi ai khấm khá
thì người đó sẽ chia xẻ đồng đều với hai người kia và không dành đặc quyền gì cho mình
cả‖. Chúng tôi đồng ý. Nhiều năm trôi qua và tôi đi từ Khoranssán đến
Transoxiana, từ Ghazni đến Cabul; để khi trở về tôi làm việc hành chánh và lên
đến chức tổng lý trong nội các thời Tiểu Vương Alp Arslán.
Cũng
trong bài tự thuật này, ông kể tiếp về việc hai người bạn cũ sau này đã tìm gặp ông để yêu cầu thi hành lời hứa thuở còn đi học. Vị Quốc Sư
(Vizier) đã vui vẻ bằng lòng. Hasan xin một chức vụ trong chính quyền và Quốc
Vương đã chấp thuận lời yêu cầu của quốc sư nhưng y không thỏa mãn và và thất bại trong mưu toan soán đoạt vai trò của Nizam ul-Mulk phải bỏ trốn. Hasan sau đó trở thành lãnh tụ của
nhóm khủng bố Ismailiyah -- một nhóm
Hồi giáo ly khai cực đoan từ Ai Cập
truyền sang Ba Tư – chuyên dùng những thủ đoạn ám muội và tàn ác với ý định cướp chính quyền.
Bọn
khủng bố này có nhiều chi phái, trong đó nhóm do Hasan Ben Sabbáh
lãnh đạo đã có thời đã
kiểm soát một khu vực rộng lớn trong dãy núi Elburz (giữa
Iran và Syria), ảnh hưởng mạnh trong
tầng lớp thợ thuyền và dân lao động. Năm 1090, y chiếm được lâu đài Alamút
trong tỉnh Rúdbar ở dãy núi nằm dọc biển Caspian và từ căn cứ này nổi danh
trong thời Thập Tự Quân (Crusade).
Theo tổ chức của
nhóm Ismailiyah người
đứng đầu của họ được gọi
là Sơn Chủ (Shaykhúl-Jabal
- Mountain Chief), rồi từ chữ này
Thập Tự Quân dịch thành le Vieux (lão gia) hay Old Man of the Mountains (mà Kim Dung dịch là Sơn Trung Lão
Nhân). Trong thời kỳ huy hoàng,
Hasan đã sống như một tiểu vương
giữa những rặng núi cao:
... Lão gia sai quây một thung lũng giữa hai ngọn núi lại để
biến nơi đó thành một khu vườn, khu vườn to lớn và đẹp đẽ nhầt mà người ta có
thể thấy được, trong trồng đủ loại cây ăn trái. Nhiều lâu đài và dinh thự đồ sộ và tráng lệ nhất người ta có thể dựng lên, tất
cả đều dát vàng và những bức tranh lộng lẫy. Có những dòng suối chảy đầy rượu
hay sữa, mật và nước, và rất nhiều phụ nữ, những đàn bà đẹp nhất trên đời, biết chơi đủ loại nhạc khí, hát thật êm
tai và nhảy múa cực kỳ duyên dáng. Lão gia quả muốn những thần dân của ông ta coi đây là
Thiên Ðàng thành thử ông tạo dựng đúng như những gì tiên tri Mahomet miêu tả nước trời ...
Không một ai được
quyền bước chân vào
khu vườn ngoại trừ những người
có ý muốn trở thành
Ashishin. Có một bức thành chắn giữ ngay cửa vào đủ sức ngăn chặn cả thế giới,
ngoài ra không còn lối nào khác. Ông ta giữ nơi triều đình một số thanh niên,
từ mười hai đến hai mươi tuổi và kể cho họ nghe về Thiên Ðường
như ngày xưa Mahomet đã làm,
và họ tin vào ông ta chẳng khác nào người Saracens tin vào đấng tiên tri.
Hasan mê hoặc đồng đảng bằng một loại cây có chất
ma túy tên là hashish khiến người dùng nó bị ảo giác theo cách thức sau đây:
... Ông đưa nhóm người đó vào vườn – bốn, sáu hay mười người một – bằng cách cho họ
uống một loại mê dược khiến cho họ thiếp
đi rồi cho người khiêng
vào thành thử khi
tỉnh lại thì đã ở trong vườn rồi. Khi tỉnh lại thấy mình ở một nơi tuyệt
diệu quá nên ai cũng nghĩ mình đã được lên Thiên Ðàng. Những phụ nữ và đồng
trinh kia âu yếm với họ và cho họ tất cả những
gì mà một thanh niên ham muốn, và vì thế chẳng một ai muốn bỏ đi.
Người được lệnh đi thi hành việc ám sát được gọi
là Hashshashin (người hút hashish
hay opiate of hemp-leaves) và
chữ này đã biến thành chữ assassin trong
tiếng Anh.2
2 Về từ nguyên
(etymology) của chữ assassin cho đến nay vẫn còn nhiều tranh
luận. Có người thì cho rằng bắt nguồn
từ Hassaniyyún có nghĩa là “người theo Hasan”; Caseneuve thì lại nghĩ có liên
quan đến chữ seâx (con dao) trong Anglo-Saxon; Gébélin lại bảo là từ chữ Shàhinsháh
(vua của các vì vua). Giải thích được nhiều người chấp nhận nhất do Sylvestre
de Sacy là từ cây thuốc Hashish (Indian hemp hay Cannabis Indics) và du nhập
vào Âu Châu do các Thập Tự Quân (Crusaders) để biến thành Assassini, Assessini,
Assissini, Heissessini, Hashishin ... Edward G. Browne: A Literary History of Persia (Cambridge: Cambridge University
Press, 1956) tr. 204-5
Vị vương gia đó – mà chúng tôi gọi là lão gia – duy trì triều
đình của ông một cách huy hoàng và cao sang như thế, khiến cho những kẻ ngờ
nghệch kia tin tưởng tuyệt đối rằng ông là đấng tiên tri. Mỗi khi ông muốn gửi một ashishin đi công tác, ông sẽ sai người cho
kẻ đang ở trong vườn uống một thang mê dược rồi khiêng hắn vào dinh. Khi gã
thanh niên tỉnh lại ở trong lâu đài mà không còn ở trong Thiên Ðường nữa, y cảm
thấy hụt hẫng. Sau đó y được dẫn vào gặp lão gia, vái chào hết sức cung kính
tưởng rằng đứng
trước một đấng tiên tri thực.
Vương gia mới hỏi y từ đâu đến, y trả lời là từ Thiên Ðường, nơi mà giống y như những gì đấng Mahomet đã miêu tả trong
thánh kinh. Việc đó khiến cho những ai đang ở trong triều, và những người chưa được chấp nhận, thèm thuồng mong được vào Thiên Ðường.
Và như thế, nếu lão gia muốn giết một tiểu vương
nào, ông ta chỉ nói với chàng
thanh niên:
―Ngươi hãy đi giết kẻ đó kẻ đó và khi ngươi trở lại đây các
thiên thần của ta sẽ đưa ngươi trở lại Thiên Ðường.
Nếu ngươi có chết chăng
nữa ta cũng sẽ sai thiên thần mang
ngươi trở về Thiên Ðường được‖.
Thế là y tin ngay và không lệnh lạc nào mà y không làm vì người
thanh niên chỉ mong sao chóng hoàn thành nhiệm
vụ để được quay về Thiên Ðường.
Và bằng cách đó, lão gia
sai người đi ám sát những ai ông ta cần trừ khử. Các tiểu vương khác ai ai cũng khiếp sợ và đành tuỳ thuộc vào ông ta để mong
sao được yên bình và thân thiện.3
Nhóm
khủng bố này hoạt
động mạnh tại Trung Ðông cho tới mãi tận thế kỷ thứ 13 thì bị người
Mông Cổ tiêu diệt mặc dù một số ít vẫn tồn tại tới ngày nay.
Một
trong những nạn nhân của họ lại chính là Nizam ul-Mulk.4 Người ta bảo rằng
trước khi từ trần Nizam ul-Mulk đã ngâm những câu
thơ “đi như gió cuốn biết về nơi nao”
(Oh God! I am passing away in the
hand of wind!) của người bạn Omar Khayyám.
Omar Khayyám cũng đến gặp Nizam
ul-Mulk nhưng ông lại không muốn làm quan mà chỉ xin được “sống dưới sự che chở của ngài để nghiên cứu về Khoa Học, cầu nguyện cho
ngài được trường thọ và phong túc”. Vị Quốc Sư thấy ý định của người bạn cũ
không thể lay chuyển nên đành phải để ông đi và chu cấp cho ông một năm 1200
mithkáls (tiền vàng) để ông trở về sống tại Naishápúr cho tới khi chết. Omar Khayyám đã tinh thông nhiều bộ môn nhất là thiên văn học và được triều đình cũng như dân chúng
hết sức ái mộ.
4 Nizam ul-Mulk bị ám sát chết trên đường đi từ kinh đô Esfahan
đến Baghdad năm 1092, Omar Khayyám bị thất sủng. Về
cái chết của Nizam ul-Mulk, sách vở chép là do nhóm khủng bố Ismailiyah (Y Tư
Mỹ Lương) nhưng cũng có nơi cho là do
âm mưu của vợ ông vì con trai bà không được chỉ định làm người thừa kế.
Khi vua Malik Shah có ý định cải tổ niên lịch, Omar là một trong tám nhà bác học được vời vào triều để thực hiện công tác này và sau đó đã áp dụng vào thời đại mà người ta gọi là Jaláli era (hay Jalád-ud-din) mà tính toán chính xác hơn lịch Julian và cũng không kém gì lịch Gregorian. Ông cũng để lại nhiều công trình về đại số (algebra) và đóng góp khá nhiều vào sự huy hoàng của khoa học Trung Ðông thời trung cổ. Ông phối hợp cả hai phép lượng giác (trigonometry) lẫn phép xấp xỉ hay cận tự (approximation) để đưa ra phương pháp giải đại số bằng quan niệm hình học.
Omar Khayyám chết khi nào cho đến nay không
có tài liệu nào chính xác ngoài
một giai thoại không biết do ai viết về một bài thơ của ông, bằng tiếng Ba Tư,
phụ đính cho cuốn Veterum Persarum Religio
của Hyde trang 499 được đề cập đến
trong thư tịch của D’Herbelot dưới tiêu đề Khiam là
ông qua đời ở Naishápúr vào năm 517 (1123 TL).
Khwájah Nizámi, một người
học trò của ông đã kể lại
như sau:
Tôi vẫn thường đàm đạo với sư phụ, Omar Khayyám, trong một
khu vườn và một hôm thầy tôi đã bảo: ―Mộ ta sẽ nằm tại một nơi mà gió bắc sẽ rải lên trên đó những cánh hoa
hồng‖. Tôi hơi ngạc nhiên vì thầy tôi không bao giờ nói những lời vô ý nghĩa.
Nhiều năm sau khi có dịp viếng Naishápúr, tôi đến thăm mộ ông và ngạc nhiên thay những cành cây lòa xòa reo rắc những cánh hoa phủ kín cả tấm
bia.
Tác phẩm của Omar Khayyám được dịch ra nhiều thứ tiếng và bản tiếng Anh của Edward FitzGerald (1859) rất được nhiều người biết đến. Thơ của ông làm theo thể tứ tuyệt nay còn lưu truyền khoảng 250 bài. Thể loại này là một loại gần như dân ca của Ba Tư, được viết bằng tiếng mẹ đẻ trong khi phần lớn các áng văn chương khác được viết bằng tiếng Ả Rập. Có lẽ chính vì thế mà nhiều bài được quần chúng truyền tụng và những hình ảnh ông nêu lên được khắc trên những mảnh ngà như một tác phẩm nghệ thuật chẳng khác gì người Việt chúng ta lấy những câu Kiều, Chinh Phụ Ngâm làm đề tài vẽ tranh. Thơ của Omar Khayyám ca ngợi cuộc đời nhàn tản, tiêu dao, uống rượu, ca hát ít nhiều ngược với tập tục nghiêm khắc và những cấm đoán của Hồi giáo và có lẽ đó cũng là một mặt khác của chốn thiên đường mà con người vùng Cận Ðông mơ tưởng.
*
* *
Năm
1861 người ta thấy một tiệm sách cũ ở London
(England) có bán rẻ một cuốn sách với
giá 1 penny nhan đề Rubaiyát of Omar Khayyám, the
Astronomer-Poet of Persia, Translated into English Verse. Cuốn sách đó
không để tên người dịch. Dịch giả đã mượn người chủ tiệm in 250 bản để tặng bạn
bè và sau đó, như số phận của nhiều tập thơ cổ cũng như kim khác, để thì chật
chỗ, bán chẳng ai mua nên y đã tặng lại cho nhà in và được rao bán rẻ mong thu
được đồng nào hay đồng nấy. Giá nguyên thủy của cuốn thơ là 5 shillings, giảm
xuống còn 1 shilling mà vẫn ế nên sau cùng đã xuống mức còn 1 penny (1/12 của
shilling) trước khi làm giấy phế thải.
Hai thanh niên vô tình
nghe được bèn rủ nhau
đến mua mỗi người vài quyển – 1 penny 1 quyển.
Hôm sau họ quay lại định mua thêm thì thấy giá đã lên đến
2 pennies một quyển, và một đồn mười, mười đồn trăm người
ta ùn ùn đến mua cuốn Rubaiyát
đến nỗi chỉ vài tuần sau giá sách
lên vọt đến 21 shillings một quyển, nghĩa là gấp 250 lần cái giá bán sale.5
Người viết không có cái may mắn kiếm được một bản nguyên thủy đó mà chỉ
có trong tay ba bản in sau này.
-
Bản thứ nhất do Walter
J. Black ở New York (USA) ấn hành năm 1942 nhan đề The
Rubáiyát of Omar Khayyám – Rendered
into English Quatrains by Edward FitzGerald (The five authorized versions),
178 trang.
-
Bản thứ hai là một bản đẹp cũng nhan đề Rubaiyát of Omar
Khayyám, translated into English Quatrains
by Edward FitzGerald, do Random House, New York xuất bản năm 1947, 150
trang được đựng trong hộp cứng. Sở dĩ chúng tôi gọi là bản đẹp vì mỗi trang
được in trên một nền vẽ các loại điểu thú, đóng khung và có kèm theo một số bức
minh họa bằng màu của họa sĩ
Mahmoud Sayah người Ba Tư, đa số vẽ những
cặp tình nhân rất
tình tứ.
-
Bản thứ ba do nhà xuất bản Grosset &
Dunlap, Publishers, New York ấn hành năm 1946 nhan đề Rubaiyat of Omar Khayyam – Rendered into English verse by Edward
Fitzgerald và những hình vẽ của hoạ sĩ Ba Tư Sarkis Katchadourian cũng là
một tác phẩm hiếm có.
Một bản dịch hẩm hiu chưa bao giờ hoàn tất
Edward FitzGerald là một công tử con nhà giàu, con nhà gia thế. Mẹ ông tên là Mary Frances
FitzGerald Purcell là em họ cha ông và được thừa hưởng của gia đình một gia tài
kếch xù.
Edward sinh ngày 31 tháng 3 năm 1809
là con thứ bảy trong tám anh em. Cũng như nhiều cậu ấm khác, Edward chơi nhiều
hơn học. Cậu có máu nghệ sĩ và chỉ thích đọc sách làm thơ, đánh đàn và vẽ. Cậu cũng
nổi tiếng về ăn mặc nhếch nhác, ít khi cạo râu và tính tình bừa bãi, phòng ốc
lúc nào cũng bừa bộn những sách vở, hình ảnh, quần áo … Mặc dầu được cha gửi
vào một đại học danh tiếng, Edward cũng chỉ
lêu bêu trong bốn năm. Thế nhưng những ai quen biết đều phải chịu rằng
Edward rất quí bạn bè.
Cuộc đời của Edward cũng vô định như khi cậu theo
học đại học và thường đi lang thang mỗi
nơi độ vài tháng, phần lớn chỉ vì tò
mò hơn là có mục tiêu rõ rệt. Mặc dù gia đình có những phủ đệ ở khắp nơi, cậu lại chỉ
đi thuê phòng ở một mình. Trong số
các bằng hữu, Edward có quen với một thư ký ngân hàng tên là Bernard
Barton, lớn hơn cậu đến 25 tuổi, coi như một người bạn vong niên trong văn
chương. Năm 1849, khi Barton bịnh nặng sắp chết, FitzGerald tỏ lòng hào hiệp hứa sẽ chăm sóc cho cô con gái Lucy của ông này. Thực tình mà nói, Edward
FitzGerald chỉ có ý sẽ chu cấp cho cô gái mồ côi nhưng cả người ốm lẫn cô gái lại tưởng là Edward ngỏ lời cầu hôn. Chính cái tính
do dự bất quyết của Edward FitzGerald đã khiến cho việc đó trở thành nhì nhằng kéo dài đến mấy năm liền và cuối
cùng anh chàng đành phải lấy cô gái làm vợ mặc dù
bạn bè cố gắng khuyên can không nên “anh
hùng rơm”. Thế nhưng người hùng cứ tiến hành lễ cưới vào ngày 4 tháng 11
năm 1856.
Cuộc
hôn nhân không đem lại hạnh phúc và hai người phải chia tay. Edward FitzGerald trợ cấp cho người vợ
ngắn ngủi một khoản tiền lớn và cuộc tình duyên thất bại này đã ảnh hưởng khá
nhiều đến cuộc đời ông. Chính trong thời gian không thoải mái đó, Edward
FitzGerald đã tìm quên trong việc dịch Rubaiyát của Omar ra tiếng Anh.
Ông
bắt đầu học tiếng Ba Tư từ năm 1853, khởi đầu bằng dịch tác
phẩm Salámán and Absál của Jámí do một người bạn là Giáo Sư E. B. Cowell
của trường đại học Cambridge gửi cho. Tác phẩm thứ hai cũng do Cowell giới
thiệu là những vần thơ của Omar Khayyám. Lối dịch của Edward FitzGerald cũng giống như những người làm thơ Ðường, nghĩa là ngày đêm miệt mài, đi đâu cũng mang theo kè kè và mỗi khi
tìm được một ý hay thì ghi ngay xuống. Ông dịch những
bài
thơ của Omar Khayyám bằng thơ bốn câu của Anh văn, câu đầu vần với câu thứ hai và câu
thứ hai vần với câu thứ tư.
Tới đầu năm 1858,
Edward FitzGerald đã dịch được 75 bài tứ tuyệt và gửi cho tờ báo Fraser’s Magazine. Một năm sau vẫn không thấy đăng tải,
FitzGerald đòi lại bản thảo và tự ý bỏ tiền in như đã
viết ở trên. Ấn bản này là một
tập thơ mỏng chỉ bao gồm 21 trang mà
ông giới thiệu là của Omar Khayyám, một “ thiên
văn-thi gia Ba Tư ”.6
Về sau chính ông thú nhận là “ bản dịch của tôi trải qua rất nhiều trăn trở
”7 và
cũng như bao nhiêu người đã từng thử dịch thơ, có lẽ đây là công trình gian nan
nhất, một mặt phải hiểu cho đến nơi đến chốn nguyên tác, mặt khác lại phải biến
những ý tưởng đó thành một dạng văn chương nếu không bằng thì cũng đừng kém quá. Không phải ai
cũng có thể chuyển ngữ một tác phẩm tầm thường như Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài
nhân thành một tuyệt tác như Ðoạn Trường Tân Thanh. Thế nhưng nhiều phê bình
gia về sau đã đánh giá rằng bản dịch của Edward FitzGerald có phần còn trội hơn
nguyên tác của Omar Khayyám.
Nói đúng ra, bản của ông không phải
là bản dịch. Nguyên tác gồm hơn 400 bài tứ tuyệt (người viết dùng tạm để dịch chữ quatrains), mỗi bài là một
ý riêng, tuy có thể chia thành một số đề mục nhưng không phải là một bản trường
thi nhưng Edward FitzGerald đã sắp xếp, chọn lựa, lắm khi ghép đoạn nọ vào đoạn
kia để thành một bài thơ bốn dòng của
riêng mình. Chính vì thế ông thay vì dùng chữ dịch (translated), ông
lại dùng chữ trình bày (rendered) là một chữ nghĩa rất rộng và mơ hồ. Có thể
nói ông nghiền ngẫm nguyên tác của Omar Khayyám rồi nung nấu trong lòng,
mượn ý của nhà thơ Trung Ðông để nảy
ra thành những bài thơ của chính mình. Gordon S. Haight đã bảo rằng bản của Edward FitzGerald đã “đạt tới một mỹ độ mới vượt xa cả nguyên
bản”.8
Ðiểm đáng chú ý là Edward FitzGerald
vẫn tiếp tục nghiền ngẫm những vần thơ rubaiyát
của Omar Khayyám cho tới cuối cuộc đời và tiếp tục thêm bớt, sửa đổi, khi
thì cả câu, khi thì một đôi chữ, khi thì đảo lên đảo xuống cho hay
hơn. Chính vì thế mà có tới 5 ấn bản khác nhau được in ra, mỗi ấn bản được sửa lại khác bản cũ.
Bản đầu năm 1859 bao gồm 75 bài tứ tuyệt. Ðến năm
1868, ông in bản thứ hai, bao gồm 110 bài. Ðến bản thứ ba năm 1872, và bản thứ
tư năm 1879, ông giảm xuống còn 101
bài. Cả bốn bản đó ông đều để tên vô
danh và chính vì thế ngay cả bạn bè
ông cũng không ai biết ông chính là tác giả.
Sau khi ông chết, người ta tìm
thấy một bản in lần cuối trong đó ông
sửa lại bằng tay một
số câu, và đó chính là bản thứ năm, bản sau cùng, được bạn ông là William Aldis
Wright tu đính và ấn hành năm 1889 dưới nhan đề Những bức thư và di cảo của Edward FitzGerald 9. Một cách
tổng quát, ngoài hai bản đầu tiên năm 1859 và 1868, những bản sau không có gì thay đổi nhiều và đến
nay những bản in mới thường có cả 5 bản khác nhau để độc giả tiện việc so sánh
và tham khảo. Chính vì thế người ta cũng có thể biết qua phần nào cái tính “thôi xao”10 của
Edward FitzGerald và công lao của ông trong việc cố đưa bản Anh văn lên mức
hoàn chỉnh.
*
* *
7 I suppose very few people
have ever taken such pains
in translation as I have …(bản Walter
J. Black, 1942, tr. 8)
8 … from that altitude to reach new levels of beauty in his translation, which is incomparably better than the original.
(Walter J. Black, 1942, tr. 9)
9 Letters and Literary Remains
of Edward FitzGerald
10 nói về việc gọt dũa văn chương
theo một điển về Giả Ðảo đời Ðường
Tại sao bản dịch
của Edward FitzGerald lại được nhiều
người biết đến?
Thực tình mà nói, ngay tại nước Anh
số người lưu tâm đến bản dịch này cũng rất hiếm hoi và gần như 2 ấn bản đầu
tiên không mấy ai chú ý. Dịch phẩm này chỉ được nổi tiếng khi Charles Eliot
Norton viết một bài khen ngợi trên
tờ North American Review (Hoa Kỳ) vào
tháng 10 năm 1869 và đã trích dẫn 74 bài tứ tuyệt trong số 110 bài
để dẫn chứng. Chẳng bao lâu thơ của Omar được rất nhiều người biết đến vượt xa
cả chính quê hương là xứ Ba Tư Nghìn Lẻ Một Ðêm của ông và tính cho tới giữa
thế kỷ 20 đã có khoảng 600 ấn bản được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Sự trống vắng của con người dường như thời đại nào cũng là một ám ảnh và dằn vặt khiến chúng ta hoài nghi tất cả. Có lẽ không bao giờ nhân loại kiếm được câu trả lời và đó cũng chính đó là
điểm chạy dài trong suốt những dòng thơ của Omar Khayyám.
Ðể
kết luận, người
viết chép lại bản tiếng
Anh của Edward FitzGerald mà Quách Mạt Nhược đã dịch ra thành hai câu thơ:
Lai như lưu thủy hề, thệ như phong,
Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung!
Những câu đó là bài thơ số 28/29 trong ấn bản đầu tiên, bài số 31/32 trong ấn bản thứ nhì nhưng trong các ấn bản 3, 4, 5 lại trở về
thứ 28/29:
With them the Seed of Wisdom did I sow, And with my own hand wrought
to make it grow;
And this was all
the Harvest that I reap’d—
―I came like Water,
and like Wind I go.‖
*
* *
Into this Universe, and Why
not knowing, Not Whence, like Water willy-nilly flowing: And out of it, as Wind along the Waste,
I know not
Whither, willy-nilly blowing.
Những âm W lập đi lập lại tạo nên cho người đọc một nỗi mênh mang khó
tả, không biết có phải vì thế
mà nhà thơ họ Quách đã dịch được thành hai tuyệt cú ở trên không?
Nguyễn Duy Chính
Tháng 4, 2003
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Browne, Edward G. A Literary History
of Persia (Vol.
II – From Firdawsí to Sa’di).
Cambridge: Cambridge at the University Press, 1956.
2. FitzGerald, Edward.
Rubaiyát of Omar Khayyám. New York: Grosset
& Dunlap, Publishers,
1946.
3. FitzGerald,
Edward. Rubaiyát of Omar Khayyám.
New York: Random House,
1947.
4. FitzGerald,
Edward. The Rubaiyát of Omar Khayyám. New York: Walter
J. Black, 1942.
5. Hallibrton, Richard.
Complete Book of Marvels.
Indianapolis: The Bobbs-Merrill Co.,Inc., 1960.
6. Kingston, Jeremy
& David Lambert.
Catastrophe and Crisis. London:
Bloosbury Books, 1979.
7. Time-Life Books.
Light In The East,
TimeFrame AD 1000-1100. Virginia: Time-Life
Books, 1988.