BÚT,
NGHIÊN, GIẤY, MỰC
Nguyễn Duy Chính
Thời thượng cổ, người Trung Hoa ghi lại những điều cần nhớ
bằng cách thắt nút dây (kết thằng) hay vạch trên gỗ. Khoảng bốn nghìn năm
trước, họ bắt đầu dùng vạch để tượng trưng cho một số những gì mắt thấy tai nghe.
Phương pháp dùng hình vẽ diễn tả đời sống được gọi là phép tượng hình
(pictograph) và dần dần được phát triển để thành chữ viết.
Theo những nhà nghiên cứu thì văn tự Trung Hoa không phải là
phép tượng hình lâu đời nhất của nhân loại. Nhiều dân tộc khác, chẳng hạn như
Ai Cập cũng dùng hình vẽ để mô tả sự việc trước người Trung Hoa cả mấy trăm
năm. Thế nhưng chữ Hán là thứ chữ tượng hình gần như duy nhất còn tồn tại và sử
dụng đến ngày nay. Và quan trọng hơn hết, chữ viết của họ lại chuyên chở một
phần lớn sinh hoạt, vũ trụ quan cũng như nhân sinh quan của họ. Phép viết chữ,
phép hội họa, nội dung và ý nghĩa toàn cục kết thành một khối không thể tách
rời, luôn luôn là một biểu tượng chính xác cho tác giả của nó.
Người Trung Hoa gọi bút, giấy, mực, nghiên là văn phòng tứ
bảo nghĩa là bốn món đồ quí của chốn làm văn, trung gian chuyên chở ngôn ngữ, ý
nghĩa và nghệ thuật. Người Tàu đã chế tạo được giấy từ hai nghìn năm và đến thế
kỷ thứ XVI, khi ngành in đã tương đối phát triển thì sách vở của họ tính ra tổng
số nhiều hơn toàn thế giới gom lại. Khi Âu Châu vẫn còn chưa có một hệ thống
văn tự thì cung đình nước Tàu đã có được một tàng thư các chứa đến 50,000 quyển
sách. Từ thế kỷ thứ VI, người Trung Hoa đã có một hệ thống giáo dục và thi cử
để tuyển dụng nhân tài thay thế cho hình thức đề bạt, tiến cử.[1]
Michael H. Hart trong tác phẩm “Một Trăm Nhân Vật Có Ảnh Hưởng Nhất Trong Lịch Sử”[2]
đã coi việc tìm ra cách chế tạo giấy còn quan trọng hơn việc phát minh ra ngành
in vì nếu không có giấy thì ngành này cũng vô ích. Trước khi tìm ra cách làm
giấy, nhân loại muốn ghi chép gì đều phải dùng những phương tiện sẵn có trong
thiên nhiên, chẳng hạn như những phiến đất nung cứng, vỏ cây đập dập, dệt thành
vải (Thái Bình Dương), lá cây (kinh Phật ở Ấn Ðộ và Ðông Nam Á), hay cây
papyrus hoặc da thú. Phương thức đó vừa nhiêu khê, vừa giới hạn và chúng ta
ngày hôm nay không tìm biết được những sinh hoạt thời cổ một phần lớn cũng vì
không có dấu tích gì được người xưa lưu truyền lại và mọi sự đều phải trông
mong vào phương pháp và suy luận của những nhà khảo cổ dựa trên di chỉ và những
đồ khai quật.
Thành ra, người Tàu vẫn tự hào rằng họ là quốc gia có một
nên văn minh phát triển sớm hơn nhiều dân tộc khác chính là nhờ họ có một hệ
thống văn tự và những phương tiện để ghi chép lại tư tưởng và lịch sử. Tứ bảo
của họ không phải là những gì cầu kỳ mà khởi nguyên của nó rất tầm thường giản
dị. Giản phác và hòa hợp với thiên nhiên thích hợp với tinh thần vô vi của Lão
giáo. Cây bút chẳng qua chỉ là một chùm lông súc vật gắn vào một đoạn trúc,
thanh mực là than trộn với keo, giấy chỉ là bột cây trải mỏng và nghiên là một
cục đá nhặt từ bờ sông, bờ suối được gọt đẽo. Mọi thứ đều sẵn sàng trong trời
đất nên đâu đâu cũng có thể học và vùng nào cũng sản sinh được danh nho. Tuy về
sau người ta trở nên kén chọn và phân định chi li phẩm loại cho tứ bảo nhưng
không phải vì thế mà vật xoàng sĩnh có thể làm trở ngại cho nghệ thuật. Hoài
Tố, một danh gia đời Ðường một lần nổi hứng mà không có bút đã nhổ một nắm tóc
mình, nhúng vào mực để viết chữ. Vậy mà nghệ thuật được coi là hết sức giản dị
ấy theo thời gian đã trở thành hết sức uyên áo, cao thâm. Và hơn thế nữa, con
người nghệ thuật luôn luôn đóng vai trò chủ yếu trong việc hoàn thành tác phẩm.
Dụng cụ chỉ là thứ yếu. Nếu không có tài thì dù trong tay có những món đồ quí
giá nhất cũng vẫn vụng về khó coi. Sau đây là một đoạn của Kim Dung trong Lộc Ðỉnh Ký:
Phủ bá tước đó vốn
do Khang Thân Vương tặng cho, trong phòng đọc sách treo đầy thư họa, trên bàn
viết cũng bày biện không thiếu bút nghiên. Vi Tiểu Bảo vốn tính hay đánh bạc,
sợ xui, thấy hai chữ thư và thua cùng âm, nên cái gọi là “thâu phòng” (phòng
thua) ấy không bao giờ bén mảng. Lúc này, y tiến vào phòng ngồi xuống ghế, hét
đầy tớ: “Mài mực !”.
Bá tước đại nhân
xưa nay không hề cầm bút viết chữ nên gã thư đồng hơi sợ, lấy làm cảm phục đem
hết tinh thần, mang ngay một chiếc nghiên cổ làm bằng đá tía chạm hình rồng
cuốn vốn là của Vương Hi Chi trước đây dùng, đổ nước vào. Lại lấy một thỏi mực
thơm dùng dở của Chử Toại Lương đời Ðường để lại, giữ vững cổ tay, vận sức ra
năm ngón, ngưng khí mài một vũng mực thật đặc. Từ ống bút lấy ra một quản bút
cực phẩm do Triệu Mạnh Phủ ở Hồ Châu chế tạo, trải ra một cuộn giấy Kim Hoa
Ngọc Bản làm riêng cho vua Tống Huy Tông, lại đốt một đỉnh long não xạ hương mà
thời xưa Vệ đại phu vẫn dùng khi viết chữ, cung kính chờ Bá tước đại nhân hạ
bút. Phong vị đó thật đúng là:
Chung Vương Âu Chử Nhan Liễu
Triệu
Ðều chẳng ai bằng Vi Tiểu Bảo
Vi Tiểu Bảo tay
cong cong như hình hổ trảo, ngón tay lại uốn éo như kiểu cầm nã thủ, cầm bút
lên chấm một ngòi thật đậm, nghe cái bẹt, một giọt mực to đã rơi xuống, làm bẩn
cả trương giấy hoa tiên Kim Hoa Ngọc Bản.
Gã đầy tớ nghĩ
thầm:
- Hóa ra Bá Tước đại nhân không viết chữ mà theo lối “bát mặc”
(vẩy mực) để vẽ theo cách của Lương Khải.
Lại thấy y từ phía
bên trái của giọt mực sổ xuống một vạch, vẽ thành một hình loằng ngoằng như cái
cành cây. Phía bên trái cái cành cây y lại nhẹ nhàng chấm thêm một cái, trông
mạnh tựa như lối vẽ của Lý Tư Huấn Bắc Tông, lại na ná phiêu hốt như kiểu Vương
Ma Cật của Nam Tông, thật là gồm thâu sở trường của cả hai phái.
Gã đầy tớ vốn hầu
hạ chốn thư phòng, trong bụng cũng có đôi chút chữ nghĩa, toan buột miệng khen,
bỗng nghe Bá Tưóc đại nhân hỏi:
- Chữ “tiểu” ta viết có đẹp không ?
Giật nảy mình, y
mới hay là Bá Tước đại nhân viết chữ tiểu, vội vàng hết lời khen ngợi:
- Thư pháp của đại nhân, bút viết từ phải sang trái, sáng tạo
ra một trường phái mới, quả là thiên túng kỳ tài.[3]
Nhiều người bảo là phương pháp viết vẽ của người Trung Hoa tiềm
ẩn đạo sống của họ, là một liên kết giữa truyền thống và nghi thức. Thành thử
văn phòng tứ bảo không phải là những vật dụng tầm thường mà là trung gian để
con người đem tâm hồn mình hòa cùng trời đất.
BÚT
Cây bút lông mà người Trung Hoa dùng để viết chữ khác hẳn
với những loại bút khác, kể cả bút vẽ của họa sĩ vì bút lông đặc biệt thích hợp
cho việc viết chữ Tàu. Bút lông vừa là một bút vẽ của họa gia, lại vừa dùng
trong thư pháp mà cũng dùng để viết chữ thường nhật, trong công văn, thư từ. Nếu
ai từng vào thư phòng của một nho sĩ sẽ thấy trong đó có nhiều loại bút, to nhỏ
và làm bằng nhiều loại lông thú khác nhau. Mỗi loại có những công dụng tùy nhu
cầu.
Ở bên Tàu ngày xưa gắn liền hai khả năng văn hay và chữ tốt
nên tứ đại nho đời Tống đều là những thư pháp gia lỗi lạc. Vì chiếc bút lông
ảnh hưởng đến văn chương như thế, nó đã được cùng với nghiên, mực và giấy thành
một bộ tư mà người ta gọi là “văn phòng
tứ bảo”. Trong bốn món này, quản bút có đời sống ngắn ngủi nhất. Giấy mực
có thể tồn tại lưu truyền nhiều đời như một bảo vật, nghiên cũng có thể giữ
được hàng trăm năm. Ngược lại, bút lông dù bảo trì đến thế nào thì một thời
gian cũng tòe, cũng mòn, nhưng chính nó lại đóng vai trò quan trọng nhất trong
thư pháp. Giấy xấu mực tồi có thể khiến cho bức viết khó lưu giữ, nghiên kém
phẩm chất khiến việc mài mực mất công hơn còn bút dở thì dù người viết có tài
thế nào cũng khó mà thi triển khả năng, cũng như đàn lên dây không đúng thì
người nhạc sĩ không sao trình tấu cho hay được. Vì thế, một thư pháp gia bao
giờ cũng coi bút tốt hàng đầu trước khi lo đến ba thứ kia.
Tuy bút lông đã dùng hàng ngàn năm trước, không ai biết chắc
là nó từ đâu ra. Theo truyền thuyết, người ta vẫn bảo là do tướng Mông Ðiềm đời
Tần (thế kỷ thứ III trước TL) sáng tạo. Mông Ðiềm là vị tướng Tần Thủy Hoàng
sai trấn giữ mạn bắc chống rợ Hung Nô và xây Vạn Lý Trường Thành. Từ những di
chỉ mà ngành khảo cổ mới khai quật được thì bút lông có thể đã xuất hiện trước
đời Tần rất lâu. Phân tích những nét vẽ trên các đồ gốm tìm thấy ở Hà Nam mà
niên đại khoảng 6000 năm trước (4000 năm trước TL), các học giả cho rằng đã
được vẽ bằng một loại bút lông. Tại một mảnh sành đào được ở kinh đô cũ nhà
Thương, nay là huyện An Dương có một chữ sơ (nguyên nghĩa là tế tự) nét dày
mỏng rõ ràng viết bằng bút lông. Niên đại mảnh gốm này vào khoảng 3500 trước
(1500 trước TL). Cũng vào thời kỳ đó, chữ “bút”
trên các mảnh xương (giáp cốt văn) vẽ hình một bàn tay cầm quản bút mà đầu dưới
to hơn đầu trên dạng như bút lông. Nhiều chữ “bút” tìm thấy trên các mảnh xương hay mai rùa dùng trong triều đình
nhà Thương vào việc tế tự, bói toán cũng giống như thế. Còn ở trên những thanh
tre và lụa ở thời chưa chế tạo được giấy cũng được viết bằng bút lông. Ðến đời
Tần, khi văn tự được thống nhất thì việc dùng bút lông đã thịnh hành. Tre là
vật liệu thông dụng nhất để làm quản bút, đến thời này người ta thêm bộ trúc
trên đầu chữ bút. Chữ bút đó giống như chữ bút viết theo thể triện ngày nay.
Các nhà khảo cổ cũng không biết chắc thời đó bút dài ngắn ra
sao và chòm lông thú vật được chế tạo như thế nào vì chưng những vật liệu này
không tồn tại được lâu như xương hoặc sành sứ. Năm 1931 người ta đào được một
quản bút gỗ thời Tây Hán (206 TTL - 24 STL). Mãi đến năm 1954, tại Trường Sa
(Hồ Nam) khi khai quật một ngôi mộ cổ thời Chiến Quốc (475 - 221 trước TL)
người ta mới tìm được một cây bút còn nguyên vẹn. Quản bút bằng tre, dài 18.5
cm, đường kính 0.4 cm được đặt trong một hộp bằng tre và lâu khoảng 2400 năm.
Chùm lông làm bằng lông thỏ mịn. So sánh với các loại bút về sau này thì bút
này mảnh hơn, đầu bút cũng ngắn hơn. Có lẽ là vì thời đó người ta dùng bút viết
trên những thanh tre và những thanh tre chỉ khoảng chừng 1cm bề ngang nên bút
cũng phải nhỏ. Thế nhưng nhìn chung thì chẳng khác gì những cây bút ngày nay
bao nhiêu.
Theo thời gian cây bút lông có thay đổi ít nhiều nhưng tựu
trung chỉ nhằm làm sao cho ngòi bút được tinh xảo hơn và gắn vào quản bút cho
chắc chắn, khéo léo hơn. Ngoài trúc, người ta cũng dùng nhiều loại vật liệu
khác như gỗ, ngà, ngọc và cả kim loại như đồng, sắt, vàng, bạc. Trong viện bảo
tàng Trung Hoa hiện còn tàng trữ nhiều bút cổ bằng sơn mài, ngà, sừng … điêu
khắc tỉ mỉ, công phu là những đồ ngự dụng đời Thanh, đời Minh. Ðối với một thư
pháp gia, cây bút là một dụng cụ rất tinh áo. Có nhiều qui luật chặt chẽ từ
cách cầm đến cách sử dụng. Chọn một quản bút hảo hạng là việc đầu tiên của tập
luyện viết chữ. Ngoài ra còn phải tạo được một khung cảnh thích hợp, ánh sáng,
tư thế đứng ngồi, và cách tập trung tinh thần, cách thở. Nói chung viết chữ
không phải là một kỹ thuật mà là một nghệ thuật, hay hơn nữa là một nghi thức.
Quản bút phải cầm sao cho thẳng, ngón cái và ngón trỏ cầm
cán, bút đè vào đốt ngón tay ngoài cùng của hai ngón trỏ và giữa. Các ngón tay
khum khum làm sao để có thể để được một quả trứng trong lòng bàn tay. Tay cầm
bút phải chặt và thầy giáo thường thử bằng cách bất ngờ giựt thử khi học trò sơ
ý xem có tuột khỏi tay không.
Thoạt tiên, thư pháp gia nhúng ngòi bút vào nghiên mực, rồi
vuốt nhẹ ra khỏi đĩa mực, vừa vuốt vừa hơi xoay để cho mực khỏi đọng quá nhiều.
Người viết tập trung tinh thần để nhìn bằng óc tất cả hình ảnh định viết trước
khi hạ bút. Khi ngòi bút vừa đụng vào giấy là phải di chuyển ngay. Những nét
dọc ngang đó đã được truyền từ đời này sang đời khác theo một phép tắc riêng,
không thể vi phạm mà nhà nho gọi là “trái
cựa”. Chỉ khi nào đã lên hàng danh sư mới có thể sáng tạo lối riêng cho
mình.
Một điều đáng nói là viết chữ Tàu không được sửa. Chấm bút
xuống thế nào là cứ để nguyên thế và nếu viết hỏng thì chỉ có cách bỏ đi chứ
không thể sửa hay dặm lại. Có ba loại bút, cỡ nhỏ cỡ trung và cỡ lớn. Ngoài ra
còn một số bút chế riêng thật to để viết đại tự hoặc câu đối trông hình như cái
chổi quét nhà gọi là đẩu bút. Một nguyên tắc chung là bút lớn có thể dùng viết
chữ nhỏ hơn nhưng người ta không dùng bút nhỏ để viết chữ lớn. Dẫu sao, mỗi
loại chữ phải dùng một kiểu riêng nên thư pháp gia rất kén chọn khi dùng bút.
Quan trọng nhất của một cây bút vẫn là ngòi bút, làm bằng
lông thú. Hầu như người ta dùng đủ loại, nhưng lông chồn, thỏ, dê, khỉ, heo,
sóc, mèo là những loại phổ thông hơn cả. Vương Hi Chi dùng lông râu chuột để
viết. Mễ Phế (Mi Fei) có lần dùng cả cây mía để thử. Tuy có thể dùng nhiều loại
vật liệu làm ngòi bút nhưng vì không thuận tiện, chẳng hạn lông chim không hút
mực, râu chuột khó kiếm nên hiện nay người ta thường chỉ dùng lông chồn, lông
thỏ, lông dê là những loại dễ kiếm và thích hợp.
Một loại bút đặc biệt là bút bằng tre non, một đầu được đập
mềm rồi dùng dao chải thành những cọng mảnh như lông. Bút này thường dùng để
viết kiểu chữ lệ. Một loại bút đặc biệt khác có tên là “thai bút” vì dùng tóc cắt ra lần đầu tiên của một hài nhi. Kiểu này
nay vẫn còn nhưng thường dùng làm kỷ vật hơn là sử dụng hàng ngày. Thân bút
thường có khắc tên họ và ngày sinh của đứa trẻ.
Khi viết chữ Tàu, khởi đầu và kết thúc một chữ đều là một
điểm nhỏ nên ngòi bút phải có tính đàn hồi để làm sao trở về nguyên trạng thật
nhanh. Một lần chấm mực viết được nhiều chữ và mỗi chữ đều phải sắc như nhau.
Khi tì bút xuống thành một nét đậm nhưng nhắc bút lên thì đầu bút phải thu lại
ngay để nét chữ được dày mỏng và ngay trong một chữ cũng đã có chỗ dày mỏng
khác nhau. Ðó chính là chỗ ảo diệu và nghệ thuật của viết chữ Tàu.
Bút đầu mềm thích hợp cho việc viết chữ nét to, mập mạp như
kiểu viết của Nhan Chân Khanh (Yan Zhenqing) còn đầu viết cứng dùng để viết chữ
loại mạnh và gầy, có gân như kiểu viết của Liễu Công Quyền (Liu Kungch’uan) đời
Ðường. Thế nhưng không phải ai ai cũng theo hoặc Nhan thể, hoặc Liễu thể mà tùy
trường hợp mỗi người một kiểu. Cho nên cũng có khi họ đặt làm riêng những loại
bút đặc biệt, trộn nhiều loại lông thú cho vừa với lối viết của mình.
Các loại bút hiện nay trên thị trường, nếu làm bằng lông dê
thì mềm, còn lông chồn thì cứng hơn. Riêng bút lông dê có đến 32 hạng khác
nhau, tùy theo lông trên bộ phận nào của con vật. Người ta chia làm ba loại
lông khác nhau : lông dê (dương hào) lông sói (lang hào), và lông tía (tử hào).
Lông gọi là lang hào chẳng qua chỉ là lông chồn chứ không phải thật lông chó sói
và tử hào chính là lông thỏ. Lông dê mềm dẻo và dễ hút mực, còn lông thỏ thường
dùng viết nét mạnh và to, dùng trong thư pháp.
Thế nhưng kiếm được lông thú đúng tiêu chuẩn chỉ mới là bước
đầu vì tài nghệ của người thợ cũng không kém phần quan trọng. Cho đến ngày nay,
bút lông vẫn chủ yếu là một công việc bằng tay và phải qua một quá trình phức
tạp. Chính thế mà những thư pháp gia vẫn phải bỏ những khoản tiền khá lớn để
mua bút tốt do những người thợ nổi tiếng chế tạo. Những loại bút tốt nhất của
Trung Hoa là bút làm ở Tuyên Châu, tỉnh An Huy. Bút Tuyên Châu làm bằng lông
thỏ loại cực phẩm, trước đây vẫn thường là đồ tiến cung.
Nghề làm bút cũng là một nghề gia truyền từ đời nọ sang đời
kia. Lông làm ngòi bút đã đành mà quản bút người ta cũng kén. Trúc là loại
thông dụng và tiện lợi nhất vì có đủ loại, đủ cỡ, lại được trồng khắp nơi, trừ
những vùng cực bắc Trung Hoa và nhất là rất rẻ. Thế nhưng trúc cũng có nhiều
giống và phải lựa giống trúc không nứt, không bị cong vì thời tiết thay đổi.
Tuy ngày nay ít loại quản bút làm bằng vật liệu khác nhưng trước đây thợ dùng
đủ loại tùy theo khách đặt hàng. Có cả những quản bút làm bằng sơn mài hay khảm
xà cừ hoặc khảm bạc, khảm vàng. Nhiều quản bút bằng ngà được trạm trổ rất nghệ
thuật. Bút tre vẫn tốt hơn cả vì nhẹ và nhất là cân, người viết không phải vận
sức để truyền xuống ngòi bút khiến cho nét bút được khoái hoạt hơn. Bút thường
có một nắp bút cùng loại. Hiện nay, giá trên thị trường tùy loại bút, tùy cỡ
bút mà giá cả có thể từ vài đồng đến vài chục, vài trăm. Tuy nhiên giá cả chưa
hẳn đã nói lên giá trị thực của cây bút.
Trong bốn bảo cụ của nhà nho, bút đứng đầu vì không có bút
tốt thì khó mà thi triển tài năng. Chính thế mà ngưòi Tàu vẫn bảo rằng “mặc áo cũ nhưng phải dùng bút mới”.
Hộp bút
NGHIÊN
Nghiên Đoan Khê
Truyện kể về một viên quan huyện cố công cưỡng đoạt của một
gia đình trong hạt của y một chiếc nghiên cổ để đem lên dâng thượng quan mong
thăng tiến trên hoạn lộ. Khi đoạt được chiếc nghiên, y lại tính xa hơn, nghĩ
nếu chỉ đem biếu viên Tổng Ðốc sở tại thì phí quá vì nếu đem dâng lên viên Kinh
Lược Bắc Kỳ (cũng là một người ưa thi mặc) chắc sẽ đắc thể hơn. Vì thế y mới
lấy chiếc nghiên y vẫn thường dùng vốn là nghiên của gia đình y đem nạp lên
thượng ty.
Y chùi rửa sạch sẽ, đóng một cái hộp thật đẹp chắc mẩm không
ai có thể ngờ được chuyện y đánh tráo chiếc nghiên. Cùng lúc y ở dinh Tổng Ðốc
thì cũng có một thầy địa lý Tàu được mời đến để xem đất cho gia đình nhà quan.
Ông thầy Tàu cũng là người am tường cổ vật nên viên quan nhân tiện nhờ coi dùm
chiếc nghiên xem có thực là đồ quí không. Sau khi xem kỹ, hóa ra chiếc nghiên
là của Mễ Phế đời Tống chế tạo, quí giá vô ngần, gấp bội chiếc nghiên viên quan
huyện dấu đi ở nhà.
Câu chuyện rất thú vị vì ngoài tình tiết li kỳ, lại có chút
hóm hỉnh, lần đầu tiên tôi được biết đến mặc trì, khoái, mạn … là những từ cổ
nhân dùng để nói về nghiên. Mễ Phế, tự Nguyên Chương là một thi, họa gia nổi
tiếng, lại chuyên về đá làm nghiên, viết bài Bái Thạch Vi Huynh phú (nhận đá làm
anh), người đời vẫn gọi ông là ông Mễ điên.
Nghiên mực thực ra chỉ là một cục đá, loại đá mài mịn được
đẽo gọt để vừa dùng mài mực mà vừa dùng để đựng mực. Thành ra bao giờ bên cạnh
một mặt phẳng cũng có một chỗ lõm cho mực chảy xuống. Chỗ đó gọi là mặc trì (ao
mực) vừa dùng để chấm mực, vừa vuốt bút cho mực khỏi đọng quá nhiều. Một chiếc
nghiên tốt bao giờ mài cũng trơn và không nghe tiếng kêu.
Quả thực trong văn phòng tứ bảo, chỉ có nghiên là có thể tồn
tại lâu hơn cả. Chiếc nghiên đầu tiên còn ghi lại trong Tây Thanh Nghiễn Phổ là
Bích Thủy Noãn của Vương Khâm đời Ðông Tấn (500 TTL) . Một chiếc nghiên cổ khác
có tên là Ngọc Lan Ðường cũng vào thời này. Thế nhưng đó chỉ là những cổ vật
danh tiếng được ghi lại chính thức, giấy trắng mực đen. Những nhà khảo cổ hiện
nay còn tìm được những cổ nghiễn lâu hơn thế nhiều. Năm 1975, tại một mộ cổ
vùng Hồ Bắc tìm được một nghiên cổ đời Tần có khoảng 2,200 năm trước. Năm 1980,
một nghiên cổ đến 5000 năm tìm thấy tại Tây An, Thiểm Tây, có cả một số mực
hạt, một bát sứ đựng nước mài mực.
Trước đời Ðường, đa số nghiên làm bằng sứ, gạch hay đất
nung. Tuy có một số nổi tiếng như Thanh Châu, Giáng Châu nhưng không tốt, người
sau không mấy ai để ý tới những loại nghiên này. Thời đó, nghiên thường trông
như một miếng ngói đặt úp, có một chỗ trũng để mài mực và được nung bằng một
nhiệt độ cao hơn sành sứ thường.
Nghiên tốt phải có hai đặc tính. Thứ nhất là chất liệu phải
mịn, chắc chắn nhưng ẩm và nhẵn. Thứ hai là phải trơn để khỏi làm mòn bút và
mực không đọng trên mặt nghiên. Trong các loại đá để làm nghiên, chỉ có Hấp
thạch và Ðoan thạch có được cả hai ưu điểm này. Thế nhưng kỹ hơn nữa thì Hấp
thạch không tốt bằng Ðoan thạch và vì thế nếu nói tới nghiên người ta cho rằng
Ðoan Nghiễn là quí nhất, Hấp Nghiễn đứng thứ hai.
Ðoan thạch là loại đá lấy từ huyện Cao Yếu vùng Ðoan Châu,
ngày nay thuộc về phủ Triệu Khánh, tỉnh Quảng Ðông. Ở phía đông cách tỉnh lỵ
chừng 30 dặm có một cái vực tên là Linh Dương, sâu đến vài chục thước, nước
chảy xiết. Con suối đó tên là Ðoan Khê hợp nước từ các ngọn núi Phủ Kha, Trà
Viên, Tướng Quân chảy dồn lại. Hầu như tất cả các loại đá tại vực Linh Dương
đều có thể dùng làm nghiên, mỗi một tầng lại có những đặc tính riêng. Tầng dưới
cùng là đá tốt nhất vì ngâm nước lâu năm nên làm nghiên không hút mực.
Ngay từ đời Ðường người ta đã khai thác đá ở Ðoan Khê và đến
đời Tống thì trở nên rất qui mô. Có đến hơn 70 mỏ đá làm nghiên vào thời kỳ đó.
Nghiên Ðoan Khê mịn mặt nhưng đủ nhám để mài mực nhanh và thường có màu tím
xanh cho tới tím đen. Cũng có nghiên vân đỏ, vân cam, vân trắng … càng thêm mỹ
thuật và giá trị. Quí nhất là nghiên có “mắt”
(hình giống con mắt, chữ trong ngành gọi là cù dục nhãn tức là mắt con yểng,
con nhồng) màu xanh hay màu cam mà người thợ thường cố gò cho những vân đó vào
hình thể điêu khắc trên chiếc nghiên.
Không phải cứ đá có vân đẹp là có thể làm nghiên vì nghiên
mực quan trọng ở thực tế có hữu dụng hay không chứ không phải mỹ thuật. Mễ Phế
viết trong Nghiễn Sử là chỉ mười ba nơi trên nước Tàu có đá làm nghiên được
thôi. Chính vì kiếm được một tảng đá để làm nghiên khó khăn như thế nên người
ta biến nó thành một tác phẩm nghệ thuật bằng cách trạm trổ, điêu khắc. Và coi
trọng cái nghiên thì những thứ khác cũng trở nên cầu kỳ, kén chọn. Vua [Đường] Huyền
Tông ưa chuộng những loại đá có vân, nhất là có hình vảy như vảy rồng. Cũng
chính từ thời này mà bốn món bút, nghiên, giấy, mực mới được mệnh danh là văn
phòng tứ bảo. Ðoan châu, Hấp châu, Thanh châu là những nơi sản xuất nhiều
nghiên nổi tiếng cho đến tận bây giờ.
Hấp nghiễn là nghiên làm bằng đá ở Hấp châu, lấy từ rặng núi
Long Vĩ (La Văn sơn) nằm giữa huyện Vụ Nguyên ngày nay với ranh giới Giang Tây
- An Huy. Dưới chân núi là suối Phù Dung, có nhiều hang động. Ðá vùng này thuộc
loại đất sét (argillite), có độ cứng và độ nhuyễn cao hơn đá ở Ðoan Khê. Khi
gõ, tiếng nghe như khánh. Núi Long Vĩ rộng lớn nên đá tại đây cũng có nhiều
loại khác nhau. Ở trên cao, đá màu đen, ở lưng chừng sắc nhạt hơn, dưới cùng là
loại nê tương dùng làm nghiên rất tốt. Ðá có tia màu vàng (kim tinh) là quí nhất.
Ðá cũng có nhiều vân khác nhau.[4]
Xem thớ đá cũng có nhiều loại, mỗi loại một phẩm chất.[5] Vì
người ta theo vân và thớ mà đặt tên nên Hấp châu có nhiều nghiên quí truyền lại
đời sau.Thời Nam Ðường, nghiên Long Vĩ, cùng với giấy Trừng Tâm Ðường và mực Lý
Ðình Khuê là ba món nổi danh được người người ưa chuộng.
Người Tàu bắt đầu khai thác đá từ đời Ðường tới cuối đời
Tống mới chấm dứt. Nghiễn Phổ của Tô Dị Giản (Tống) viết: Nay trong núi ở Hấp Châu có đá, tục gọi là đá Long Vĩ, người ta đem đục
thành nghiên, sắc đen, đứng thứ hai sau Ðoan thạch. Hấp Châu Nghiễn phổ của
Ðường Tích cũng viết: Nghiên Vụ Nguyên
bắt đầu có từ thời nhà Ðường. Người thợ săn họ Diệp đuổi theo thú đến thấy đá
như bức tường, sắc rực rỡ nên nhặt mấy cục đem về tạc thành nghiên, đá mịn hơn
cả Ðoan Khê. Con cháu nhà họ Diệp sau mướn thợ về đục lại thành nghiên để
truyền làm gia bảo.
Ngoài hai loại Ðoan khê và Long Vĩ, nhiều loại đá khác cũng
được dùng làm nghiên. Loại đá đỏ Thanh châu thì rất hiếm. Các loại khác như
hồng ti, mã não, tùng hoa … không có nhiều.
Ngoài nghiên làm bằng đá, người ta cũng làm nghiên bằng sành
sứ. Những loại nổi tiếng nhất có Phần Thủy và Quắc (là hai nơi trong tỉnh Sơn
Tây) là loại đất sét hoàng thổ thật nhuyễn, độ dính cao. Ðất được gạn và để
lắng, nặn thành nghiên đem nung kỹ.
Ðời Hán có một cung điện tên Vị Ương và một đài tên là Ðồng
Tước. Về sau cung và đài này bị đổ nát nhưng hậu nhân lấy ngói đem làm nghiên,
không hút mực mà lại dễ mài, gọi là Vị Ương nghiễn, Ðồng Tước nghiễn. Về hình
dáng, nghiên cũng có nhiều kiểu, hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật, hình
trái bầu, hình chiếc lá … tùy theo người chế tạo. Một điểm đáng lưu ý là nghiên
cũng như triện, những danh sĩ thường tự làm lấy cho mình dùng nên chủ nhân cũng
thường là tác giả. Vì nghiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật nên người ta
chuộng văn sức tự nhiên, nghĩa là tùy theo vân đá, thớ đá mà chế tạo, vừa mỹ
thuật vừa chứng tỏ sự sáng tạo, óc tưởng tượng phong phú của nghệ nhân. Văn
Thiên Tường có một cái nghiên tên là Ngọc Ðái Sinh Nghiễn vì có vân trắng chạy
quanh như hình đai ngọc. Tô Thức (Ðông Pha) có Ðông Tỉnh Nghiễn, Tòng Tinh
Nghiễn đều do hình dạng và vân thớ mà đặt thành tên. Trong lịch sử nhiều tác
phẩm viết về nghiên đã được lưu truyền nhưng thường chỉ mô tả mà không vẽ hình
nên người đọc không biết nghiên đó thế nào. Chỉ có cuốn Tây Thanh nghiên phổ có
vẽ hình bằng tay nên cũng không ích dụng lắm. Hiện nay, những tác phẩm viết về
nghiên đều có hình ảnh, chụp màu và dưới nhiều góc cạnh. Ðó cũng là cái may cho
những người muốn nghiên cứu về cổ vật.
Tuy văn học lúc nào cũng được coi trọng nhưng phong khí mỗi
lúc một khác. Ðời Tống được coi là cao điểm của việc tạo nghiên. Về sau chỉ có
vua Càn Long nhà Thanh là người say mê nghiên cổ và phát triển nghề đục nghiên
ra toàn quốc. Nhiều trung tâm tại Quảng Ðông, Giang Tô, Chiết Giang, An Huy và
các tỉnh được thành lập. Viện bảo tàng Ðài Loan hiện nay có rất nhiều nghiên
phần lớn là do vua Càn Long ra lệnh sưu tầm.
Sự tích về những danh sĩ ưa chuộng
nghiên tốt người đời truyền tụng rất nhiều. Ðiều đó không lấy làm lạ vì ở Trung
Hoa thi thư gắn liền nhau, đã làm thơ hay cũng thường vẽ đẹp, chữ tốt nên người
ta yêu nghiên cũng chẳng khác gì một nhạc sĩ chuộng cây đàn, một nhà thể thao
yêu cái vợt. Truyện kể rằng vua Huy Tông (1105-1125) một lần cho triệu Mễ Phế
vào cung viết chữ cho vua coi. Sau khi xem ông trổ tài, nhà vua rất lấy làm vừa
ý nên hỏi ông muốn được thưởng gì. Mễ Phế trả lới là ông chẳng mong tiền bạc,
chỉ mong được làm chủ chiếc nghiên vừa mài mực cho ông viết. Lẽ dĩ nhiên vua
Huy Tông đồng ý và Mễ Phế lập tức nhặt chiếc nghiên còn đầy mực, gói ngay vào
áo, mực dính be bét khiến cả triều đình phải phì cười.
Hiện nay tuy nghiên mực không còn gắn bó chặt chẽ với người
học trò như xưa vì đã có nhiều phương tiện khác như bút chì, bút bi, computer …
nhưng nhiều người vẫn thích dùng nghiên để mài mực, nhất là những thư pháp gia
thường không thích dùng mực pha sẵn bán từng chai. Tìm được một chiếc nghiên tốt
cũng không dễ. Dùng nghiên không nên để mực khô mà nên rửa sạch sau khi dùng.
Không nên dùng vật nhám hay đồ kim loại để cạo hay chà nghiên. Những chiếc
nghiên đắt tiền thường có hộp đựng, bằng gỗ hay sơn mài. Nghiên càng quí thì
hộp càng đẹp, bằng cẩm lai, gụ, mun và thường có khắc chữ hay trạm trổ. Nghiên
rẻ tiền nhất làm bằng mạt đá ép, thường chỉ để cho trẻ con tập viết.
Cổ nghiễn cũng là một sở thích của nhiều nhà sưu tầm. Một số
người Nhật Bản dám bỏ những món tiền lớn mua nghiên cổ của Tàu. Hiện nay, nếu
muốn người ta có thể mua những bộ chữ (fonts) đủ loại chân thảo triện lệ để
dùng trong những nhu liệu của máy điện toán. Thế nhưng nhiều người vẫn thích
viết chữ vì ngoài nghệ thuật, đây cũng là một cái thú thanh tao di dưỡng tâm
hồn. Sáng tác một bài thơ, làm một đôi câu đối, mài mực một cách khoan thai để
cho hồn lắng đọng rồi tập trung tinh thần viết những nét rồng bay phượng múa
trên một tờ giấy hoa tiên là một sảng khoái không phải ai cũng có được. Có lẽ
vì thế mà nghiên bút trở thành một phần không thể tách rời của thi nhân.
GIẤY
Ðời xưa, khi nói tới học rộng, người ta thường ví là học hết
năm xe sách. Thực ra, cái năm xe mà người Trung Hoa nói tới là năm xe chở những
thanh tre, thanh gỗ kết với nhau. Những thanh tre đó có viết chữ và đó là sách
của người xưa. Chữ “sách” của người
Tàu nay vẫn còn dùng là một tượng hình của loại sách đó. Và nếu thế, năm xe
sách có lẽ cũng chỉ bằng vài chục cuốn sách của chúng ta ngày nay. So sánh cái
hiểu biết giữa cổ và kim thì thật một trời một vực. Vì thế, phải nói tìm ra
cách làm giấy là một phát minh hết sức quan trọng cho việc truyền đạt và lưu
trữ kiến thức, Ðông cũng như Tây.
Theo những khai quật ở Hồ Nam đầu thế kỷ này, chúng ta biết
rằng chữ viết và thư tịch đã phát triển từ đời nhà Thương hơn 3000 năm trước.
Giáp cốt văn là loại chữ đơn giản được khắc và viết trên xương bò, mai rùa.
Thời đó, chữ viết chỉ có trong triều đình không phải vì thường dân không được
học mà vì việc chế tạo mai rùa hay xương thú để viết chữ rất khó khăn và đắt đỏ,
dân chúng không thể thực hiện được.
Học hành chỉ hưng thịnh lên khi người ta biết viết chữ trên
các thanh tre vào khoảng thế kỷ thứ VIII trước TL. Thời đó gọi là thời Xuân Thu
và sau đó là thời Chiến Quốc, giai đoạn mà rất nhiều triết gia, tư tưởng gia và
học giả xuất hiện, một giai đoạn nổi bật trong lịch sử Trung Hoa với nhiều nhân
tài lỗi lạc như Khổng Tử, Lão Tử, Mặc Tử, Tuân Tử … Sử gọi giai đoạn này là
thời kỳ trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng (bách hoa tề phóng, bách gia tranh
minh). Vì lý do chính trị cũng như kinh tế, nhu cầu truyền bá và cạnh tranh,
việc viết lách trở nên thiết thực nên việc dùng tre để đóng thành sách đã vượt
trội giai đoạn khắc trên xương, trên mai rùa.
Làm được một cuốn sách lúc này mất rất nhiều công. Tre được
cắt thành từng phiến đều đặn, cật (tức phần ngoài cùng) được cạo đi rồi đem
hong lửa cho chảy mồ hôi (hãn thanh) và ám khói ngõ hầu ít bị mối mọt. Người ta
sẽ khắc hay viết bằng bút lông trên các thanh tre này và buộc lại thành sách.
Một cuốn sách kiểu đó không những đã cồng kềnh, nặng nề mà lại chẳng viết được
bao nhiêu. Chính thế mà cổ nhân viết hết sức cô đọng và hàm súc, lời thật ít mà
ý thật nhiều chứ không dài dòng như chúng ta ngày nay.
Tuy nhiên sách viết bằng tre cũng còn quá đắt và tốn công,
đa số những nho sĩ không kham nổi. Trong dân chúng người ta viết bằng những thứ
thông dụng hơn như lá chuối, hoặc chép lại trên vải, trên tường, trên cánh cửa
hay bất cứ chỗ nào có thể được. Nhiều khai quật mới đã tìm thấy những bức tường
có viết chữ như một thứ sách trong nhà.
Năm 221 trước Công Nguyên, nhà Tần thống nhất Trung Hoa sau
hơn năm trăm năm phân liệt. Tần Thủy Hoàng bãi bỏ chế độ phong kiến, tập trung
quyền hành vào chính quyền trung ương. Nhà Tần cũng thống nhất văn tự, các đơn
vị cân đo, tiền tệ và thực hiện nhiều công trình qui mô như thủy lợi, đê điều,
đường sá, giao thông.
Các đơn vị hành chánh địa phương (thay thế cho các tiểu quốc
đời Chu) có trách nhiệm liên lạc, báo cáo với trung ương về tình hình và việc
thi hành chính sách. Văn tự vì thế trở thành phương tiện thông tin quan trọng
trong việc quản trị đất nước. Sách chép là mỗi ngày vua Tần phải đọc khoảng
hàng trăm cân công văn (viết trên tre) và đọc chưa xong thì chưa đi nghỉ. Có
thể trăm cân cũng chỉ chừng năm, bảy mươi trang ngày nay nhưng đối với thời đại
đó là một việc hiếm hoi.
Tuy đời Tần người Tàu chưa làm được giấy nhưng việc thống
nhất tổ chức hành chánh, chữ viết và phương pháp tập quyền là một trong những
động lực chính yếu dẫn đến việc phát minh ra giấy đời Hán sau này.
Theo sách vở, Thái Luân, một hoạn quan đời Ðông Hán là người
đã phát minh ra giấy. Bút Mông Ðiềm, giấy Thái Luân là câu tục ngữ của người
Tàu (Ðiềm bút Luân chỉ). Theo “Chỉ Phổ”, sau khi dùng tre, người ta đã có thời
dùng lụa làm giấy viết. Tuy nhiên, lụa quá đắt mà tre thì nặng nề, không tiện
mang đi lại. Tới đời Hòa Ðế nhà Hậu Hán, Thái Luân cải cách việc chế tạo và coi
như thủy tổ nghề làm giấy.
Hậu Hán Thư chép là
Thái Luân nghĩ tới việc dùng vỏ cây, đay, vải và lưới cá để làm giấy và sau
cùng tìm ra cách làm giấy bằng các loại cây có sợi. Năm 105 sau TL, ông đã tâu
lên vua việc ông làm và được nhà vua tưởng thưởng. Thế nhưng đó chỉ là truyền
thuyết và thực tế, giấy đã có trước đời Thái Luân. Trong những cổ mộ và khai
quật đời Tây Hán đã thấy có những mảnh giấy và người ta cho rằng chính từ nghề
dệt đã sinh ra nghề làm giấy.
Sau khi lấy tơ, những bã còn lại của cái kén được nấu lại và
giã cho tơi. Sau khi rửa sạch, những bã này được phơi trên những khung tre để
làm vật liệu độn áo bông, hoặc may làm chăn vì ấm và nhẹ. Tuy nhiên, trên những
sườn tre đó vẫn còn môt lớp sợi mỏng và người ta đã bóc ra để làm giấy viết.
Chính vì thế mà chữ “chỉ” [紙] là
giấy một bên có bộ mịch (糸 là
tơ). Việc dùng những bã của tơ sợi để làm giấy cũng không giải quyết được vấn
đề vì số lượng còn quá ít, giá lại cao. Thành thử, người ta nghĩ đến việc tìm
kiếm những loại cây có thớ sợi khác để dùng vào việc chế tạo giấy. Những mảnh
giấy tìm thấy trong các cổ mộ đời Hán thấy làm bằng sợi gai.
Tuy Thái Luân chưa hẳn đã là người chế tạo ra giấy nhưng
chắc chắn ông ta đóng góp không nhỏ trong việc hoàn chỉnh công trình này. Ông
đã thử dùng nhiều loại cây có sợi đồng thời tìm cách cải tiến cho được nhanh.
Trước đây người ta chỉ ngâm nước cho mục, nay ông đem cho vào cối, dùng chày
giã. Tiếp theo những cố gắng của ông, chỉ trong vòng hai, ba trăm năm sau đời
Hán, giấy đã được chế tạo một cách qui mô và có hệ thống hơn. Người ta cải cách
việc hong giấy cho khô, và chú trọng đến phẩm chất của giấy bản, vừa làm sao
cho dễ thấm nước, đồng thời lại bền chắc và không bị hủ nát theo thời gian.
Người ta dùng vỏ cây dâu để làm giấy, lại tìm cách nhuộm màu. Một số những bút
thiếp theo lối của Vương Hi Chi còn giữ được đến ngày nay cho thấy thời Hán đã
chế tạo được những loại giấy có phẩm chất cao.
Tới đời Ðường, khi người ta nghĩ ra được phương pháp in
thạch bản thì nhu cầu về giấy tăng vọt lên. Và tới đời Tống, khi việc học hành
và thi cử đã thịnh hành thì nghề làm giấy đã lên tới một mức đáng kể về cả phẩm
lẫn lượng. Người Tàu phải tìm những loại nguyên liệu dễ kiếm và tre lại được
dùng một cách rộng rãi và trong suốt một nghìn năm sau, kỹ thuật làm giấy không
thay đổi mấy. Cũng nên biết rằng chính Âu châu cũng nhập cảng phương pháp làm
giấy của Trung Hoa để thay thế những thạch bản, hay miếng da mà thời cổ họ
thường dùng. Người Pháp học được cách làm giấy từ người Ả Rập mà người Ả Rập
thì do những tù binh Trung Hoa họ bắt được khi giao tranh với quân nhà Ðường
(751 TL).
Về phẩm, giấy do người Tàu chế tạo cũng cao hơn Tây phương.
Nhiều cuốn sách từ đời Tống tới ngày nay vẫn còn tốt, không bị dòn gẫy. Giấy
của vùng Tuyên thành, An Huy (Tuyên chỉ) đã được coi như loại giấy lý tưởng cho
những người học thư pháp. Hiện nay, tại Ðài Loan vẫn còn một số xưởng chế tạo
giấy theo phương pháp cổ truyền để làm riêng cho thư pháp gia và những người ưa
chuộng. Vật liệu là vỏ cây dâu và cây dó (wikstroemia canescens) nhập cảng từ
các nước Ðông Nam Á.[6]
Tùy theo màu sắc, trọng lượng, dày mỏng và chất liệu mà có những loại giấy được
đặt tên khác nhau như Bạch Nga, Quan Âm, Thanh Vân, Bạch Ngọc, Thiền Diệp, Băng
Tuyết, Lục Hạnh …
Tại Việt Nam, từ thế kỷ thứ XIII chúng ta cũng đã có kỹ nghệ
làm giấy mặc dầu ngay từ thời bắt đầu tự chủ (thế kỷ thứ XI) triều đình đã mở
khoa thi và chắc chắn các nho sinh đã dùng giấy để viết [7]. Ở
ngoại ô Hà Nội, làng Yên Thái (tức làng Bưởi) có nghề làm giấy từ thời nhà Lê.
Thành thử một thi sĩ cận đại là Dương Khuê đã hạ bút:
Phất phơ cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Chày Yên Thái tức tiếng chày giã vỏ cây
để làm giấy. Dư Ðịa Chí của Nguyễn Trãi đã nói tới nghề làm giấy và vào thế kỷ
thứ XVIII, Lê Quí Ðôn cũng viết rất chi tiết về phương pháp chế tạo giấy của
Việt Nam. Giấy của ta làm bằng vỏ cây dó, một loại cây có lá hình bầu dục dài,
mặt dưới có lông ngắn, hoa trắng[8], trồng nhiều tại vùng thượng du Yên
Bái, Phú Thọ.[9]
MỰC
Một thanh mực quí đúc nhân dịp hoàn thành Tứ Khố Toàn Thư
có ngự thi của vua Càn Long
Ngày xưa, khi ban thưởng cho kẻ sĩ, vua chúa vẫn thường cho
giấy, bút, mực vì thời đó một thỏi mực tốt không phải rẻ. Trong bốn loại bút
nghiên giấy mực, mực lại là sản phẩm tốn nhiều công lao và thì giờ nhất. Tính
ra có đến hơn hai mươi giai đoạn, dùng nhiều kỹ thuật khác nhau, lại thêm một
số bí mật gia truyền. Người Tàu vẫn thường nói là “Vàng dễ kiếm mà mực khó tìm”. Không như Tây phương, chữ nghĩa chỉ
coi như một thứ ký hiệu truyền thông và tuy cũng có nghệ thuật viết chữ
(calligraphy) nhưng chủ yếu vẫn là đều đặn, đồng nhất, cân đối chứ không ai
viết một hàng mà chữ to chữ nhỏ, chữ dài chữ ngắn. Trái lại, chữ Tàu, mỗi chữ
là một bức tranh mà hợp tất cả lại cũng là một bức tranh khác. Chính thế mà khi
người ta xem chữ, người ta nhìn vào nét bút, lời thơ mà cả những chỗ trống để
tìm một sự hòa hài, ý vị. Một thư pháp gia cẩn trọng bao giờ cũng coi việc viết
chữ như một nghi lễ. Có lẽ ngoài các nước Á đông không nước nào khác trên thế
giới lại treo chữ để trang trí trong nhà. Một bức thiếp đẹp, người ngắm không
cần hiểu những chữ đó nói gì vẫn có thể cảm nhận cái đẹp và sức sống trên tờ
giấy.
Trước khi viết chữ, thư gia bao giờ cũng tắm rửa, thay một
bộ quần áo sạch sẽ như một thiền sư trước khi nhập định. Sau đó, họ phải tạo
một khung cảnh và chuẩn bị bằng cách đốt một đỉnh trầm hay thắp một nén hương,
uống một tuần trà. Thế nhưng mài một đĩa mực là lúc mà người nghệ sĩ đặt hết
tâm hồn, để cho lòng tĩnh lãng. Ðổ một chút nước lên mặt nghiên, một tay giữ
nghiên cho vững, tay kia cầm thỏi mực quay đều đặn, chầm chậm theo hình tròn
cho tới khi mực sánh lại. Mực tốt không bao giờ nghe tiếng sột soạt khi mài và
người biết cách mài mực không để cho thỏi mực vạt một bên.
Trước đây người ta vẫn cho rằng thời Tam Ðại (Hạ Thương
Chu), người ta chưa biết làm mực chỉ dùng sơn đen để viết. Sách Vật Nguyên
viết: Ngu Thuấn chế ra bút, dùng sơn để
viết trên những thanh tre vuông. Sách Mặc biểu cũng viết là: Ðời Thượng cổ người ta dùng sơn, đời trung
cổ dùng đá mài còn ngày nay dùng mực làm bằng than. Tuy nhiên, theo những
di chỉ mới tìm thấy và dùng các phương pháp khoa học kiểm nghiệm thì từ nhà
Thương đã biết dùng son và mực. Trên những mảnh mai rùa, những chữ giáp cốt mà
niên đại khoảng hơn 3000 năm trước đã được tô bằng mực và son và vật liệu căn
bản không khác gì thời nay. Tới thời Chiến Quốc, đã có nhiều sách vở nói về
việc dùng mực và triều đình nhà Hán yêu cầu các phiên thuộc tiến cống bằng giấy
và mực. Nếu như vậy, rất có thể không phải Trung Hoa là nơi tìm ra cách làm mực
mà họ cũng đi học ở một nước nào đó, hoặc những nước khác cũng biết cách làm
giấy mực mà kỹ thuật còn cao hơn của ngưòi Tàu.
Mực thời đó có hai loại, một loại lấy đá tán nhỏ và một loại
làm bằng than gỗ thông. Mực làm bằng đá sau đời Ngụy Tấn không còn nữa nhưng
mực làm bằng than thì ngày càng cải tiến và vẫn tiếp tục cho đến tận ngày nay.
Mặc Pháp của Vi Trọng Tướng chép là: Ngày
nay người ta làm mực bằng cách tán than cây thông, lọc bằng vải nhuyễn, trộn
thêm keo và vỏ cây đàn hương. Sau đó thêm lòng trắng trứng, ngọc trai, xạ
hương. Phải giã đủ ba mươi ngàn chày. Mỗi thanh mực nặng hai lạng.
Tới đời Ðường, Lý Ðình Khuê làm mực nổi tiếng, danh còn truyền
đến tận ngày nay. Sách Thất Tu Loại Cảo viết: Mực của Lý Ðình Khuê làm bằng bột vàng, thêm ngọc trai, ngọc thạch tán
ra giã một vạn lần nên rất cứng. Mặc Pháp tập yếu chép: Ðời Tuyên Hoà, vàng còn kiếm được chứ mực
của Lý Ðình Khuê khó kiếm hơn.
Lý đình Khuê vốn họ Hề, người đất Dịch Thủy, cha là Siêu đời
Ðường di cư sang Hấp Châu sinh sống. Khuê được Lý Hậu Chủ ban họ Lý (tức quốc
tính, họ nhà vua) vì có công chế ra loại mực cứng như đá trên có vân như sừng
tê. Cha con Lý Ðình Khuê được triệu vào cung để chế tạo mực riêng cho triều
đình. Trên những thỏi mực của ông đều có chữ khuê nhưng chia làm bốn bậc. Hạng nhất có chữ khuê bộ ấp, hạng nhì
chữ khuê bộ thổ, hạng ba chữ khuê bộ ngọc còn hạng tư có ba chữ Hề Ðình Khuê.
Khi nhà Ðường mất ngôi, tất cả mực của Lý Ðình Khuê chế tạo đều bị sung vào
vương khố và vua nhà Tống dùng làm quà ban thưởng cho các quan.
Hiện nay, mực Tàu chủ yếu chỉ có hai
loại chính. Thứ nhất là mực làm bằng gỗ thông (pine) hay gỗ tùng (fir) gọi là
tùng yên mặc. Cây thông được hút nhựa ra bằng một kỹ thuật riêng trước khi hạ
xuống để làm mực. Gỗ đó cho vào lò sắt đậy kín, hầm trong nhiều ngày. Chất tro
trong lò là chất liệu chính dùng làm mực. Tùy loại gỗ mà người ta có các thỏi
mực độ cứng và độ đen khác nhau. Keo hay a giao làm bằng da lừa. Mực vùng Sơn
Ðông hiện nay nổi tiếng hơn cả.
Thứ hai là hầm dầu thảo mộc với các loại hột trong lò đất
gọi là du mặc. Than đó trộn với keo, mỗi thời theo một tỉ lệ khác nhau. Hiện
nay thì cứ mười phần than dùng năm phần keo. Ngày xưa, theo sách vở người ta
dùng mười phần than, ba phần ngọc thạch tán nhuyễn, một phần keo.
Khi làm mực, người thợ phải tính toán chi li thời khắc, cân
lượng, mỗi giai đoạn đều có những tiêu chuẩn. Những giai đoạn làm mực gồm có
đốt, trộn, giã, nguấy, chưng, đúc khuôn và phơi. Mực chế tạo có hai loại, một
loại dùng để viết, còn một loại làm kiểu cách để chưng. Loại để viết thường
hình khối chữ nhật hoặc hình trụ, ép bằng khuôn có hình rồng phượng hay chữ
khắc nổi, mạ vàng. Còn loại để chưng có hình thù đặc dị, trên khắc thơ, khắc
họa, đủ kiểu đủ màu. Mực tốt thường có mùi thơm mà trước đây người ta thường
trộn xạ hương, vỏ lựu, trầm … để tăng hương vị. Mực tốt cầm nặng tay, khô ráo.
Mực xấu nặng mùi chất a giao, dùng hay lem tay. Mực cũng như rượu, loại hảo
hạng càng để lâu càng quí. Tùy theo nhu cầu, cùng một thỏi mực, người ta có thể
pha đậm nhạt khác nhau.
Bồn rửa bút bằng đất tử sa
PHỤ THUỘC
Ống bút
Khắc dấu là một nghệ thuật cũng xưa không kém gì các loại
bút nghiên. Nguyên thủy con dấu tượng trưng cho uy quyền của người viết hay sự
chính thức của văn kiện. Quan có con dấu thì nhà vua có ngọc tỉ. Về sau một nho
sinh cũng đóng một con dấu của riêng mình lên trên một bức thiếp hay một bức
họa để làm tin rằng đó là tác phẩm của mình. Hiện nay, người Tàu ở Ðài Loan bao
giờ cũng kèm theo chữ ký với con dấu như một xác chứng. Con dấu cũng không hạn
chế khắc tên của người viết mà còn có thể tên tự, bút hiệu hay thư phòng, thư
trai của chủ nhân chẳng hạn như Tập Hương Ðình, Cổ Nguyệt Trai .. Có khi người
ta khắc cả một câu thơ ưa thích hay một câu kinh nhật tụng. Trên những bức họa
cổ hay danh thiếp, mỗi gia đình làm chủ lại đóng một con dấu của họ nên trên
nhiều bức tranh có cả hàng chục con dấu khác nhau.
Khi một bức thiếp hoàn thành, người viết thường đóng con dấu
của mình ở góc trái, bên dưới, ngay sau tên mình nơi dòng lạc khoản. Những danh
sĩ thường có vài ba con dấu, để trong một hộp và tùy hoàn cảnh mà sử dụng.
Con dấu trước đây thường làm bằng gỗ, ngà hay đồng, riêng
nhà vua hay các bậc vương hầu thì làm bằng ngọc. Về sau, người ta dùng cẩm
thạch để khắc dấu. Quí nhất là loại đá màu vàng có tên là thiên hoàng hay loại đá có vân đỏ gọi là kê huyết. Mặc dầu người ta có thể thuê thợ để khắc dấu nhưng những
nhà nho vẫn thường tự tay mình khắc lấy. Một danh sĩ cận đại của Trung Hoa là
Tề Bạch Thạch (Chi Pai-shih 1862-1957) nổi tiếng cả về thư họa lẫn khắc dấu.
Chính con dấu đã là tiền đề của nghề in và là một trong bốn
phát minh quan trọng nhất mà ngưòi Trung Hoa đóng góp cho nhân loại[10].
Con dấu lại cũng là một tác phẩm nghệ thuật nên cũng rất đa hình đa dạng. Có
cái chỉ nhỏ bằng đầu đũa đóng trên các ấm trà, những cũng có những con dấu lớn
bằng bàn tay. Ðôi khi người ta trang trí trên thân con dấu bằng cách khắc cả
một bài thơ hay một bài kinh. Núm cầm thường có hình rồng, phượng, kỳ lân …
Quan trọng nhất vẫn là chính những chữ khắc trên mặt ấn. Ðó là một phối hợp nói
lên sự khéo léo và óc mỹ thuật của chủ nhân. Chữ thường là chữ kiểu triện (cho
nên ta thường gọi con dấu là cái triện, đóng dấu là đóng triện) nhưng người ta
cũng dùng các loại chữ khác, chữ lệ, chữ khải hay có khi cả hình điểu thú. Một
con dấu khắc khéo phải hội đủ ba điều kiện, bố cục của dòng chữ, nét dao khắc
và vẻ đẹp của nét bút. Con dấu có khi còn có một giải đeo, được tết nút rất mỹ
thuật.
Thế nhưng những dòng chữ trên mặt một con dấu không phải chỉ
là một chữ ký, mà là một tác phẩm rất được chủ nhân coi trọng. Không phải chỉ
giản dị viết tên mình bằng chữ triện rồi khắc lên là xong. Tuy thoát thai từ
lối chữ triện nhưng thường thì người nghệ sĩ luôn luôn tự sáng tạo, thay đổi,
chuyển hóa, chế biến nên việc đọc những hàng chữ viết trên một con dấu không
phải dễ dàng, cũng chẳng khác gì khi đọc một hàng chữ thảo.
Trước khi khắc dấu, người nghệ sĩ luôn luôn quan sát khối đá
thật kỹ. Ðá khắc dấu thường là loại hàm thạch (soapstone) có độ cứng vào khoảng
giữa 1 và 2 Mohs, nên khắc không cần phải mạnh tay lắm. Ngọc, ngà tuy có quí
nhưng thường quá cứng khắc hay bị trượt tay và khó thi triển tài năng.
Tuy tài nghệ của người nghệ sĩ là chủ yếu nhưng chính tảng
đá cũng có dự phần và nhiều khi người điêu khắc phải lựa theo mật độ, thớ đá,
những hạt thạch anh lẫn trong đá và cả những vết nứt. Mỗi nét dao đều là một
tổng hợp của bản thân người nghệ sĩ, con dao và chính cục đá. Một con dấu khắc
khéo thì “khí” của nó phải tự nhiên,
linh động, tưởng chừng như cục đá được trời sinh ra để làm con dấu đó mà thôi.
Người thợ chỉ làm công việc “đục bỏ những
chỗ thừa”. Công việc đục một con dấu thật chẳng khác gì một nghệ sĩ đã nhìn
thấy tác phẩm của mình nằm sẵn trong một cục gỗ xấu xí vô giá trị.
Thứ hai là bố cục của những dòng chữ, nét chữ, sự cân đối
của hai phần âm (lõm vào) và dương (nổi lên). Tùy theo sự sáng tạo những nét
bút có thể biến thành hình hoa, điểu, mây, núi, rời xa nhau hay cuộn vào nhau,
to hoặc nhỏ. Tuy nhiêu người ta thường kỵ không xen lẫn nhiều loại kiểu chữ,
hay mỗi chữ theo một niên đại trên cùng một con dấu. Làm thế nào để lột được
hết tinh thần của những giòng chữ trên một mảnh đá con con không phải là dễ.
Thêm nữa, chữ phải tùy nghĩa, tùy nơi thoát thai. Chim bay thì đường nét phải
thanh thoát, thú chạy thì hình dáng phải phiêu bồng, ý nghĩa buồn thì chữ phải
diễn tả nét mênh mang, lời chúc tụng phải mang nét hoan hỉ.
Nét dao lại chia làm hai, đơn và kép. Ðơn là nét đục chỉ một
lần, một bên thì thẳng thắn tròn trịa, bên kia để tự nhiên. Kép thì đục sao cả
hai bên đều ngay ngắn, đều đặn. Nhiều con dấu khắc khéo, nét nhỏ như sợi chỉ mà
vẫn đều như tiện bằng máy chứ không phải làm bằng tay. Ðó cũng là nơi tỏ lộ cái
tài và sự tinh kỳ của người nghệ sĩ.
Dĩ nhiên con dấu phải kèm với hộp đựng mực, thường là son
đỏ. Hộp son cũng tương tự như hộp mực dấu ta vẫn dùng hiện nay nghĩa là lót
vải, độn bông để giữ mực được lâu và không lem. Hộp mực làm bằng kim loại hay
bằng sứ. Nhiều hộp mực là những tác phẩm của Cảnh Ðức Trấn bằng sứ men xanh hay
lá cây.
Tính toán số lượng nước đổ vào nghiên sao cho chuẩn xác ngõ
hầu khi mài mực có được độ sánh vừa ý đã khiến cho người Tàu nghĩ ra bình nhỏ
nước. Bình nhỏ nước thường có một ống thông hơi và người đổ nước có thể đóng mở
bằng cách bịt lỗ lại hay thả ra cũng giống như lỗ thông hơi trên nắp ấm trà.
Bình này làm cũng nhiều kiểu, nhiều hình dạng, hoặc trái cây, con chim, con cá
… hay giản dị hơn cả thì như một cái bình trà thường.
Sau khi mài mực, người ta gác cục mực trên một cái giá cho
mực khô, để không dính vào nghiên hay lỡ rớt làm lem tờ giấy. Cái giá đó có tên
chữ là mặc sàng, cũng tương tự như
một cục bằng sứ để gác đũa nhưng to hơn.
Giá gác bút là nơi dùng để bút tạm thời khi phải ngừng tay
làm việc gì khác. Thường khi gác bút, bút phải nghiêng khoảng 30 độ. Ðộ nghiêng
này vừa đủ để mực khỏi nhỏ xuống mặt bàn nhưng cũng không quá để chảy ngược
xuống quản bút. Giá bút có thể làm đủ kiểu, đủ hình dạng nhưng thông thường
nhất là hình ngũ nhạc (năm ngọn núi) mà mỗi thung lũng dùng để gác một cây bút.
Thông thường người ta tạc bằng đá theo hình năm ngọn núi thật.
Bồn rửa bút cũng là một món quan
trọng không thể thiếu. Bút dùng xong phải rửa ngay vì nếu để khô là coi như
hỏng. Ngày nay người ta thường xối nước bằng vòi nước trong nhà nhưng ngày xưa
thì phải dùng một bồn nước để rửa bút. Cũng có nhiều loại bồn, bằng sứ, có khi
bằng ngọc được tạc theo hình lá sen cong úp lên thành một cái chậu nhỏ. Một nền
văn minh mấy nghìn năm không thể không đẻ ra những ý tưởng cầu kỳ.
Tuy nhiên, chủ yếu không phải là ngoại biểu mà là sự ích
dụng của món đồ. Mễ Phế đã nói: Sự dụng
ích của một vật mới là chính yếu. Khi chọn một cục đá để mài mực thì cốt sao có
mài được mực hay không. Màu sắc, hình dáng chỉ là để trang trí. Dù một cục đá
có màu sắc rực rỡ, hình dáng kỳ lạ nhưng không dùng để mài mực được thì cũng
không thể làm nghiên.
Tức Mặc Hầu
Nghiên của vua Tự Đức
KẾT LUẬN
Bên cạnh những ích dụng khi chúng ta dùng mẫu tự La tinh
thay thế cho chữ Hán, cũng có những mất mát là cái giá mà ta phải trả. Một
trong những giá đó là hầu như chúng ta phải đoạn tuyệt hẳn với cái quá khứ văn
hóa hai nghìn năm. Những người theo Tây học như chúng ta hôm nay khó mà có thể
có được cái xúc động của tiền nhân khi đọc một bài thơ, ngắm một bút thiếp, xem
một bức họa với những dòng lạc khoản viết bằng chữ Hán. Khi đi thăm đền đài
miếu mạo, ta cũng khó mà mường tượng được cái bối cảnh hình thành và tiến triển
của nơi di tích nếu chúng ta không hiểu được người xưa muốn gửi gấm những gì,
vì chúng ta không mấy ai còn hiểu nổi thứ cổ ngữ mà ông cha mình đã nhiều đời
dùng làm văn tự chính thức.
Chính người Trung Hoa ngày hôm nay cũng không phải ai ai
cũng hiểu được cổ văn, vì cổ văn viết theo thể biền ngẫu, nhiều điển tích, dùng
nhiều chữ cũ, lại rất cô đọng. Thành ra, ở trường ốc hay phổ biến cho đại chúng
bao giờ cũng phải có một bản dịch ra thứ ngôn ngữ thông dụng mới gọi là bạch
thoại chứ ít khi dùng nguyên tác viết theo lối xưa (văn ngôn). Thế nhưng dẫu
sao họ cũng còn dễ dàng hơn người Việt chúng ta nhiều vì nếu dụng công để tìm
hiểu cổ văn cũng chỉ mất một thời gian ngắn.
Trái lại, người Việt thì hoàn toàn bị gián đoạn. Chữ Hán,
chữ Nôm và những sách vở cũ trước mắt chúng ta trở thành hoàn toàn xa lạ mà khi
xa lạ thì vàng thau lẫn lộn, không còn phân biệt được cái nào quí, cái nào
không. Chính vì thế, trong những năm binh lửa, sách vở cũ bị hủy hoại rất nhiều
vì không ai đọc được và nếu không hiểu được nó thì giữ làm gì. Giữ sách cũ
nhiều khi lại là cái họa, nếu đúng vào lúc mà người ta cho đó là chứng tích của
quá trình phong kiến, ăn bám, bóc lột của giới nho gia vốn là giai cấp đứng đầu
phải diệt trừ. Ðoạn tuyệt đó có người cho rằng là một âm mưu của thực dân muốn
nhổ chúng ta ra khỏi gốc rễ, người lại bảo do chính mình tự phủ nhận vì cho
rằng văn tự làm trở ngại cho công cuộc duy tân. Thế nhưng dù nguyên nhân nào,
phải công nhận rằng trong hơn 100 năm qua, nhiều đợt sóng đã tràn đến, ào ạt
cuốn đi những dấu vết văn minh Việt Nam, giống như một nhà nông cày xới mảnh
vườn trước khi trồng một vụ mùa mới.
Khi đi tìm những nét đặc trưng của một nền văn hóa, thanh
niên thấy xa lạ biết bao với những gì còn sót lại. Một công trình bảo tồn chỉ
có ý nghĩa khi chúng ta tìm thấy những dấu vết tồn đọng, mang chứng tích cụ thể
liên hệ trực tiếp với đời sống hàng ngày. Chính vì thế, khi tìm hiểu về bút,
nghiên, thư, mặc của người rồi đem đối chiếu lại với mình, chúng ta không khỏi
ngậm ngùi vì “những người muôn năm cũ,
hồn ở đâu bây giờ”[11].
Nguyễn Duy Chính
Tháng 6/97
SÁCH
THAM KHẢO
1) Việt Văn
-
Ban Văn Hóa Văn Nghệ Trung Ương, Văn Hóa Việt Nam, Hà Nội 1989
-
Phan Khoang, Trung Quốc Sử Cương, 1958 Ðại Nam tái bản
2) Anh Văn
-
Tài liệu Internet
-
He Wan Guan, Brush Strokes in Stone, The Arts of Seal Carver, Arts of Asia,
May-June 1994
-
Arts and Handicrafts of Vietnam, Thế Giới Hà Nội 1992
-
Free China Review 1996
(vol 46, no 4, 7 và 8)
-
Gernet, Jacques, A history of Chinese Civilization,
Cambridge University Press 1986
-
Hart, Michael H. The 100, A Ranking Of The Most Influential
Persons In History, Galahad Books, New York city 1982
-
Merson, John The Genius That Was China The Overlook Press, New York 1990
3) Hoa Văn
-
Trịnh Gia Hoa, Tây Thanh Nghiễn Phổ Cổ Nghiễn, Cố Cung Văn Vật, No. 167, February
1997 (The National Palace Museum Monthly of Chinese Art)
-
Cố cung cổ nghiễn tuyển tụy (Masterpieces of Chinese Inkstones in the National Palace
Museum) Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện Ấn Hành, Ðài Bắc 1974
-
Cố cung tỉ ấn tuyển tụy
(Masterpieces of Chinese Seals in the National Palace Meseum) Quốc Lập Cố Cung
Bác Vật Viện Ấn Hành, Ðài Bắc 1974
-
Cố cung văn cụ tuyển tụy
(Masterpieces of Chinese Writing Materials in the National Palace Museum) Quốc
Lập Cố Cung Bác Vật Viện Ấn Hành, Ðài Bắc 1971
-
Lưu Phi Bạch, Trung Quốc Công Nghệ Truyền Kỳ, Tinh Quang Ðài Bắc 1987
-
Mao Bội Kỳ và Lý Trạch Phụng, Tuế Nguyệt Hà Sơn, Trung Hoa thư cục,
Hongkong 1988
-
Vương Bắc Nhạc, Triện Khắc Nghệ Thuật Ðích Hân Thưởng, Hành Chánh Viện Văn Hoá Kiến
Trúc Ủy Viên Hội, Ðài Bắc 1987 (in lần thứ ba)
-
[1] Những từ tú tài (người tài giỏi), cử nhân (đề bạt
người), tiến sĩ (dâng người lên vua) vẫn còn tồn tại đến ngày nay với một ý
nghĩa mới.
[2] Hart, M.H. The
100, A ranking of the most influential persons in history (New
York: Galahad Books, 1982) tr 68
[3] Kim Dung, Lộc
Ðỉnh Ký, cuốn 5 (Hongkong: Minh Báo, 1981) trang 1757-1758 (NDC dịch)
[4] có tên riêng gọi là mi tử - như hình lông mày - chia
thành chín loại gồm nhạn hồ mi tử, đối mi tử, kim tinh mi tử, lục đậu mi tử,
cẩm túc mi tử, đoản mi tử, trường mi tử, thốc mi tử, khoát mi tử.
[5] Chẳng hạn như tế (thớ nhỏ, khít khao), thô, ám tế,
tùng văn, giác lãng, kim tinh, loát ty, đảo địa, thạch tâm, noãn thạch, nê
tương, toán tử …
[6] Jim Hwang, “Paper Tigers”, Free China Review Vol 46,
No 4 April 1996 trang 68
[7] Trong cuốn Văn
Hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995 của Ban Văn hóa Văn Nghệ Trung Ương Hà Nội
1989, dưới mục Danh Thắng Hà Nội trang 96-97 cũng có một đoạn viết về nghề làm
giấy ở các xã Hồ Khẩu, Yên Thái, Trung Nha. Theo đây thì trong sách Nam Phương Thảo Mộc Trạng của Trung Hoa
soạn thế kỷ thứ IV có ghi là “Nước Giao
Chỉ có loại giấy trầm hương hay mật hương màu trắng có vân như vẩy cá rất thơm,
bỏ xuống nước không nát”. Dân các xã làm giấy cũng truyền miệng ông tổ là
Thái Luân, dạy cho Hồ Khẩu làm giấy moi, Ðông Xã làm giấy quì, làng Thọ làm
giấy lệnh, làng Nghè làm giấy sắc, mỗi loại có đặc tính riêng. Như vậy có lẽ
chúng ta cũng học nghề giấy từ người Tàu nhưng rất sớm và cũng tự phát triển kỹ
thuật lên một mức độ cao.
[8] Viện Ngôn Ngữ học, Từ
Ðiển tiếng Việt (Hà Nội, 1992) trang 268
[9] “Paper-Making”, Arts
and Handicrafts of Vietnam (HaNoi, 1992) trang 43
[10] địa bàn, thuốc súng, in và nghề làm giấy
[11] thơ Vũ Ðình Liên